Friday, March 21, 2014

chương 34 – 38


Một cảnh thăm nuôi tù ở các trại tù miền Bắc vào các năm cuối thập niên 1970. (theo: Google)

Tù cải tạo khám bệnh

Chương 34. Một Ngày Bình Thường

Ở Trại Tân Lập

Một ngày ở trại Tân Lập bắt đầu khi tiếng kẻng đánh báo thức vào buổi sáng; chúng tôi phải xếp chăn màn và đặt chúng vuông vắn gọn gàng ngay trên đầu nằm.  Họ gọi đó là “chăn vuông chiếu thẳng”, nhưng tôi nghĩ làm như thế để họ dễ kiểm soát đồ đạc mà chúng tôi dấu diếm.  Theo quy định của trại, chúng tôi không có quyền lưu giữ những vật bén nhọn vì lý do an toàn, không được phép cầu nguyện bất cứ một tôn giáo nào, không được đọc những loại sách vở báo chí “phản động và đồi trụy”, vì vậy ngoài những “vũ khí bén nhọn” thì họ luôn luôn lục tìm những loại Kinh Thánh, những kinh của đạo Phật hoặc các tôn giáo khác, và mọi loại sách vở hay bản viết tay tiếng ngoại quốc hoặc không xuất bản ở các nước Cộng Sản.  Có nhiều trại viên đã bị phạt rất nặng vì lưu giữ những thứ này.
Cán bộ trực trại đến điểm số trại viên sau khi tiếng kẻng đánh không lâu.  Ông ta đứng ở ngưỡng cửa đếm từng người đi ra, và rồi buồng trưởng báo cáo số trại viên đã đi ra ngoài, số trại viên ốm bệnh hay đang ở trong nhà cầu.  Các trại viên không ra được phải la to lên để chứng minh rằng mình có hiện diện trong phòng.
Vài trại viên tới phiên trực đi đến nhà bếp để lãnh nước uống và phần ăn sáng về chia ra cho mọi người trong đội trong khi những người khác cố gắng rửa mặt đánh răng thật nhanh.  Chúng tôi thường không đủ thời gian để ăn sáng nên phải mang phần ăn theo và ăn sau.
Một hồi kẻng khác để báo tập họp trại viên ở sân phía sau cổng chính, chúng tôi có khoảng mười lăm phút vào hàng và đi ra sân tập họp chuẩn bị xuất trại đi lao động.  Sau khi trại viên ngồi xổm xuống chỗ của từng đội, cán bộ trực trại gọi từng đội một để xuất trại.  Đội trưởng đứng lên khi đội được gọi và la lớn lên “tất cả đứng dậy”, “nghiêm”, và rồi “bỏ mũ nón”.  Sau đó anh ta phải quay về phia cán bộ trực trại để báo cáo tổng số trại viên trong đội, số đi lao động, số nghỉ trong trại vì các lý do.  Các trại viên đi theo hàng đôi qua cổng gác để xuất trại với mũ nón cầm ở tay quay ra hai bên hàng.
Trên đường đi đến nhà lô hay đến cánh đồng để làm lao động, cán bộ quản giáo sẽ cho đội trưởng biết về công việc trong ngày để chúng tôi có thể triển khai việc làm ngay khi tới nơi.
Tới hiện trường lao động, chúng tôi phải đứng nghiêm trong hàng và bỏ mũ nón ra để đội trưởng báo cáo với cán bộ bảo vệ trước khi phân công làm việc.
Từ chín đến mười giờ, chúng tôi có được mười phút giải lao để hút thuốc, ăn sáng, hay uống nước do anh nuôi nấu.  Khoảng trưa khi nghe hồi kẻng, chúng tôi phải thu dụng cụ đem vào nhà lô và xếp hàng để đội trưởng báo cán bộ bảo vệ và trở vào trại.
Đến bờ suối, cán bộ thường cho chúng tôi năm hoặc mười phút để rửa chân tay.  Đôi khi chúng tôi tranh thủ để tắm nhanh với quần áo mặc luôn trên người rồi về trại.
Trước khi nhập trại, đội trưởng lại phải báo cáo cán bộ trực trại hay cán bộ gác cổng chính.  Một vài trại viên đến phiên trực đi thẳng xuống nhà bếp để lãnh phần ăn cho đội còn những người khác thì về phòng để sẳn đồ đựng chờ chia cơm nước hay làm những công việc riêng như phơi quần áo ướt, gặp bạn bè, hoặc chuẩn bị cho buổi lao động chiều.  Chúng tôi chỉ có khoảng một giờ buổi trưa trước khi nghe tiếng kẻng đánh báo thức vào buổi chiều.  Hầu hết trại viên thường cố ngủ để có sức lao động buổi chiều.  Mọi việc lại diễn ra giống như buổi sáng ngoại trừ khi ra về thì chúng tôi được cho phép tắm giặt khoảng nửa giờ.
Đội tôi là đội làm mộc nên thường làm tại nhà lô và ít khi về trại vào buổi trưa.  Chúng tôi ngưng việc vào lúc nghe tiếng kẻng buổi trưa, đi tắm giặt ở suối gần đó, và ăn trưa.  Anh nuôi đã vào trại để lãnh phần ăn trưa và chia ra trước cho mỗi người, do đó chúng tôi thường có nhiều thời gian nghỉ trưa hơn những đội khác.  Tôi thường ngủ ngay trên cái ghế bào của tôi vào buổi trưa.  Khi nghe tiếng kẻng báo thức buổi chiều, chúng tôi thức dậy để chuẩn bị lao động trong khi các đội khác phải tập họp trong sân trại.
Chúng tôi phải điểm nhập buồng vào khoảng bảy giờ chiều.  Vài người đem phần ăn chiều vào trong phòng để ăn vì họ không đủ thời giờ ăn uống nếu họ muốn làm việc gì đó.  Khi nghe tiếng kẻng báo điểm buồng, chúng tôi phải xếp hàng sẵn để đợi cán bộ trực trại vào.  Buồng trưởng báo cáo tổng số trại viên trong buồng, số nhập buồng, và số trại viên khác với những lý do.  Một ngày làm việc đã qua, nhưng một ngày ở trong trại vẫn chưa chấm dứt!  Chúng tôi còn phải ngồi sinh hoạt trong đội để phê bình và tự phê bình về những mặt yếu, mặt mạnh trong ngày, trong tuần hay trong tháng.  Những buổi họp này thường trở nên rất nghiêm trọng vì cán bộ hay ban thi đua thường đứng bên ngoài để nghe lén và góp ý.  Chúng tôi thường chỉ được ngủ khi đèn đã tắt.
Bốn trăm mười trại viên đến từ trại Thủ Đức là những trại viên đầu tiên ở phân trại K5, trại cải tạo Tân Lập.  Sau cuộc tuyệt thực, khoảng mười trại viên bị đưa đi biệt giam ở K1, số còn lại ở trong hai căn nhà ở khu A.  Khoảng một trăm trại viên trong mỗi phòng giam có nghĩa là chúng tôi mỗi người có một khoảng trống khoảng vừa một chiếc chiếu cói tám tấc.  Đầu năm 1980, trại viên ở các trại phía Bắc gần biên giới với Trung quốc được chuyển về trại Tân Lập vì Bộ Đội Trung Quốc tấn công Việt Nam.  Hầu hết các K ở trại Tân Lập đều đầy trại viên!  K5 có khi đạt đến con số hai trăm trại viên trong mỗi phòng giam!  Khoảng bốn tấc bề ngang cho mỗi trại viên, chúng tôi chỉ còn đủ chỗ để nằm nghiêng chứ không thể nằm ngữa được, và phải quay đầu nằm ngược chiều nhau để tránh khỏi đạp vào nhau trong khi ngủ.  Có người còn phải ngủ cả dưới sàn nhà.  Nhưng điều đó còn không ghê gớm bằng điều kiện vệ sinh của phòng giam.  Hai trăm người với một cái lỗ cầu duy nhất, quả là ghê gớm!
Rệp đầy dẫy khắp nơi, trong các tấm ván lót sàn ngủ, trong những lỗ nhỏ trên tường, trong chiếu, mùng, chăn, và ngay cả trong quần áo chúng tôi.  Tôi đã phủ tấm pon-sô phía dưới chiếc chiếu mà chúng cũng có thể leo lên mùng và nhảy dù xuống mình tôi, tôi không thể nào tránh chúng được, cũng không thể giết hết chúng được.  Vài người mang ván nằm ra để đập và giết rệp, nhưng chúng lại tiếp tục sinh sôi nẩy nở.  Ruồi, muỗi, rệp, và mùi hôi thối, thật là một địa ngục của trần gian!  Vào buổi sáng khi điểm buồng, tên cán bộ trực trại không dám đứng ngay cửa phòng mà đứng núp vào vách để tránh mùi hôi thúi từ trong phòng bay ra.
Không đủ chổ để trại viên chứa đồ đạc, chúng tôi phải làm những căn lều ở sân cạnh mỗi phòng giam.  Sân càng chật hẹp hơn.  Trong những ngày nghỉ, cái sân trông giống như một cái chợ trời nhất là khi trại viên bày đồ đạc của họ ra để phơi.  Khi điểm buồng vào phòng, chúng tôi phải đứng trên hàng hiên.
Vào lúc ấy, tôi làm việc với cương vị là phụ trách về kỷ thuật cho đội mộc; trong những ngày nghỉ vài trại viên trong đội cùng với tôi thường hay nói với cán bộ quản giáo để lãnh ra nhà lô lao động thay vì nghỉ ở trong trại.  Không có nhiều công việc làm trong những hôm ấy; nó giúp tôi tránh được tình trạng đông đúc trong trại và có dịp để tắm giặt.  Nước cung cấp không thế nào đủ cho trại vì máy bơm không đủ công suất để bơm cho quá nhiều trại viên.  Thêm vào đó, khi làm việc như thế, nhất là những công việc riêng cho các cán bộ, chúng tôi có thể xin được món này món nọ rất cần cho những người ít được tiếp tế như chúng tôi.  Ngày này qua ngày khác, lâu dần việc làm lao động trong ngày nghỉ của chúng tôi trở thành một thông lệ, chúng tôi thường đi làm hầu như hàng ngày.



Chương 35. Tết ở Trại Tân Lập

Ba ngày Tết ở trại cải tạo Tân Lập là những ngày mà trại viên mong đợi nhất vì khỏi phải đi lao động mà còn có những bữa ăn “thịnh soạn” nữa!  Để chuẩn bị cho những ngày Tết này, trại phải làm nhiều việc trước đó hàng tháng.  “Ban Thi Đua” và cái gọi là “Bộ phận Văn Hóa” -những người có nhiệm vụ trang trí trong trại và ngoài khu cơ quan nhân những ngày lễ- đã phải tổ chức một nhóm trại viên có những năng khiếu đặc biệt để làm những công việc chuẩn bị cho Tết.  Thường thì có ba nhóm trại viên phục vụ Tết trong trại, đó là nhóm trang trí, đội múa lân, và đội văn nghệ.
Hàng năm ở trại Tân Lập, nếu không có một công trình xây dựng quan trọng nào thì tôi được bổ sung vào nhóm trang trí cho Tết.  Chúng tôi sẽ làm đèn lồng, kẻ khẩu hiệu chúc mừng năm mới, sơn vẽ đầu lân cho đội múa lân, và đôi khi phụ trang trí sân khấu cho đội văn nghệ trình diễn.
Vật liệu để trang trí rất là hiếm hoi ở trong trại, do đó tôi phải tận dụng tất cả những gì có thể dùng được.  Đèn lồng, thường là loại đèn sáu cạnh gọi là “đèn kéo quân” làm bằng sườn tre, nhưng chúng tôi không có cả dây để cột tre lại nữa, do đó chúng tôi phải thu nhặt bao cát hay bao bố để tháo lấy dây cột.  Giấy màu thì phải nhuộm những loại giấy gì có thể dùng được như giấy báo, bao xi măng, tập sách đã xài rồi, vân vân.  Màu đỏ thì dùng thuốc đỏ ở bệnh xá hay nhiều khi phải xay nát gạch ra để trộn với nước, màu xanh và tím thì dùng mực màu, màu vàng thì dùng thuốc quinine hòa tan trong nước, màu đen thì dùng lọ nồi hay than.  Cọ vẽ thì làm bằng thanh tre giã nát một đầu hay dùng đuôi heo xin ở nhà bếp.  Mọi thứ đều phải “khắc phục” như họ thường nói!  Ban thi đua chỉ đưa riêng cho tôi một hộp màu nước để vẽ hoa trên những tấm giấy trắng dán sáu mặt của đèn lồng.  Chính vì lý do đó mà công việc trông rất dễ dàng nhưng phải mất rất nhiều thời gian.
Điều quan trọng nhất đối với những trại viên được bổ sung vào nhóm chuẩn bị cho ngày Tết là họ khỏi phải đi lao động mà đôi khi còn được những phần ăn thêm – mà chúng tôi thường dùng cái từ “bồi dưỡng”- như khoai mì, bo bo, hay đôi khi rau.  Tôi thường là trưởng nhóm trang trí, do đó tôi có thể hỏi xin khoai mì để giã ra nấu hồ dán.  Ban thi đua thường đưa cho tôi nhiều hơn số cần thiết và phần dư ra chúng tôi chia nhau trong nhóm.
Trong trại thì mọi cái đều có một mục đích rõ ràng là kiếm ăn!  Đó là phương cách để sinh tồn!  Đôi khi tôi cũng bị một chút phân vân về việc này vì tôi được làm những việc nhẹ nhàng mà lại có “bồi dưỡng” trong khi những bạn bè khác thì phải đi lao động mà không có gì cả.  Nhưng trong hoàn cảnh ấy thì phải làm sao đây?  Phương cách để sống còn trong trại là phải tìm mọi cách để sống miễn là không làm hại ai hết là được rồi!
Điều khác biệt chính yếu của việc chuẩn bị cho ngày Tết ở trại miền Bắc và trại ở miền Nam là ở miền Nam các trại viên làm vì họ thích làm, còn ở miền Bắc thì họ làm vì họ muốn tránh né lao động!  Tôi hiểu thế, nên tôi không bao giờ vội vã trong việc làm để mọi người đều có thể kéo dài được thời gian nghỉ ngơi càng nhiều càng tốt.
Trong những ngày Tết, thường chúng tôi được nghỉ lao động trong ba ngày.  Thời tiết miền bắc rất lạnh nên họ cho phép chúng tôi có một cái lò trong phòng giam để nấu nướng và để sưởi ấm, coi như đó là một ân huệ của trại trong những ngày đầu năm mới.  Lò thường được làm bằng những cái thùng sắt cũ đốt bằng than bùn trộn với đất.  Nó khiến căn phòng giam đã dơ dáy sẳn rồi lại thêm đầy bụi than, nhưng không ai còn chú ý đến việc ấy nữa bởi vì có dơ thêm một chút thì cũng vậy thôi.  Ngoài ra chúng tôi còn có thể sưởi ấm thêm một ít và có thể nấu nướng gì đó ngay cả chỉ nấu một ít nước sôi để pha trà.
Những phần ăn đặc biệt cũng được phát cho chúng tôi trong những ngày này như cơm trắng không độn, thịt heo, thịt trâu, bánh chưng, và kẹo mứt.  Vài người bị đói quanh năm không thể kềm chế được đã ăn quá nhiều trong một lúc nên bị ói mửa và thổ tả đầy nhà cầu.  Căn phòng càng lúc càng dơ bẩn hơn!
Trong những ngày đầu năm, vài trại viên cũng còn cố giữ phong tục.  Họ mặc áo quần tốt nhất của họ rồi đi gặp gở bạn bè để chúc tụng nhau dù rằng họ vẫn gặp nhau hàng ngày.
Đêm đầu năm, buổi trình diễn văn nghệ thường được tổ chức ở hội trường do đội văn nghệ đảm trách, thường là tuồng cải lương, một loại tuồng của miền Nam.  Không chỉ có sự tham dự của trại viên mà cả các cán bộ và gia đình và đôi khi cả dân chúng vùng xung quanh trại cũng vào xem.  Ở cái vùng hẻo lánh này thì chẳng có gì để họ vui Xuân ngoài việc vào xem cải lương do trại viên trình diễn, đặc biệt là được xem người miền Nam ca cổ nhạc Nam bộ.
Khi chúng tôi mới đến trại Tân Lập, chúng tôi được xem tuồng cải lương tên là “Bà Mẹ Sông Hồng” do các phạm nhân hình sự ở phân trại K1 trình diễn.  Vì là người miền Bắc ca vọng cổ miền Nam nên giọng ca nghe rất buồn cười.  Vài tháng sau, ban giám thị trại đã phải cho thành lập một đội văn nghệ gồm những trại viên có những khả năng đặc biệt như Tánh, người có thể đàn được nhiều nhạc cụ như guitar, đàn violon, đàn tranh, đàn cò, đàn nguyệt; như Dũng, người giả gái rất giống và rất đẹp nữa, vân vân.  Đội văn nghệ thường phải đi lao động phụ với các đội khác trong những công việc lao động hàng ngày và chỉ tập để trình diễn trong những dịp như Tết hay ngày lễ độc lập của VC.
Một bộ phận trại viên trong trại mà tôi muốn nói thêm ở đây là các phạm nhân hình sự.  Mọi việc diễn ra hoàn toàn khác với chúng tôi trong các phòng giam tội nhân hình sự trong ba ngày Tết.  Họ treo mùng và chiếu suốt ngày để ngăn riêng chỗ của mỗi người giống như là mỗi người có một phòng riêng trong phòng giam.  Họ đặt trà, bánh mứt, thuốc lào, mọi thứ mà họ có được ở ngay chỗ nằm.  Căn phòng giam trông rất tối tăm và mốc thếch với những đồ đạc dơ bẩn của họ.  Tôi có đến đó một lần khi tôi làm với Phong, một phạm nhân hình sự làm trong bộ phận văn hóa.
Ngoài việc không phải lao động ba ngày và có nhiều thức ăn ra, Tết ở trại Tân Lập khiến tôi rất nhớ gia đình.  Kể từ năm 1980, khi trại quá đông trại viên, Tết còn là những ngày ghê gớm đối với chúng tôi vì nước không cung cấp đủ cho các trại viên trong trại.  Gần hai ngàn trại viên mà chỉ có một cái máy bơm cũ kỹ, lúc thì chạy được lúc thì không quả là một điều kinh khủng!  Không ai thích đi lao động, nhưng trong điều kiện ấy thì chẳng thà đi ra ngoài để được tắm giặt ở suối còn hơn là ở dơ trong trại.  Vài trại viên trong đội 10 cùng với tôi thường hỏi cán bộ quản giáo đội để ra nhà lô làm việc, và trên tất cả là để tránh sự đông đúc và dơ bẩn ở trong trại.



Chương 36. Tôi Nằm Bệnh Xá.
Chúng ta có thể xem bệnh xá của trại cải tạo Tân Lập như là một nhà xác cũng là đúng vì nó không có thuốc men gì cho bệnh nhân.  Đó chỉ là nơi để các trại viên bệnh hoạn nằm chờ Thần Chết hoặc chờ một Phép Lạ mà thôi.  Chỉ có những cái gọi là “thuốc dân tộc”, cỏ khô, rễ và lá cây khô, và thuốc đỏ cho những người bị vết thương!  Và quan trọng nhất là cũng không có một y sĩ hay người nào có một chút kiến thức về y học cả.
Bệnh xá là một căn nhà gạch duy nhất trong trại có  mái ngói với mục đích để trình diễn khi có khách đến thăm trại.  Đi vào từ cổng trại thì nó nằm phía góc phải gần với hàng rào trại; bao bọc bởi hàng rào kẽm gai và cây dâu tằm ăn trồng gần nhau.  Cây dâu tằm còn được dùng làm thuốc ngủ nữa.
Trong một khu vực trơ trụi của trại giam thì màu xanh của khu vực bệnh xá được nổi bật lên như một điểm tương phản trong một bức tranh đồng màu.  Vì lý do an ninh, cây cối và bụi rậm không được trồng trong khu vực trại ngoài khu bệnh xá và một ít ở khu bếp.  Trong khu bệnh xá, người ta trồng rau và cây thuốc nam, trồng cây đu đủ để làm thức ăn cho bệnh nhân và vài loại hoa để làm cảnh.
Nhân viên làm việc trong bệnh xá là những trại viên được Ban Giám Thị tín nhiệm chứ không cần phải có một kiến thức gì về y học.  Khi tôi mới đến trại thì Khôi, một phạm nhân hình sự mang tội giết người trong ban Thường Trực Thi Đua làm ở đấy.  Hắn ta là ông vua trong bệnh xá; hắn có thể cho phép bất cứ trại viên nào được nghỉ bệnh khỏi phải đi lao động để được đút lót phẩm vật.  Khi hắn ta bị chuyển đi K1 thì vài trại viên khác vào làm trong bệnh xá, và một trung úy cán bộ phụ trách ở đó.
Vào mùa Đông năm 1978, cuối cùng thì tôi cũng bị kiệt sức!  Mặc dù tôi không làm những công việc quá nặng nhọc nhưng tôi cũng vẫn không còn sức đề kháng nữa.  Mọi năng lượng dự trữ đều đã cạn.  Tôi hầu như là một bộ xương biết đi mà thôi!  Mỗi sáng thức dậy tôi bước xuống các bậc của tầng gác nằm một cách rất khó khăn.  Một hôm thì tôi không còn gượng dậy được nữa, và các bạn tôi đã khiêng tôi xuống bệnh xá.  Trí óc tôi lúc đó vẫn tỉnh, nhưng tôi phải giả như mê man vì nếu không thì họ sẽ buộc tôi phải đi lao động.  Không có ai là bác sĩ, do đó tôi không sợ ai phát hiện được tôi đang giả vờ, và cũng không có thuốc men gì ở bệnh xá nên tôi cũng không sợ bị uống phạm thuốc.
Mọi người nghĩ tôi đang chết dần mòn.  Họ đặt tôi nằm trên một chiếc giường ở gần cửa sổ phía trước trong bệnh xá.  Có hai dãy khoảng hai mươi chiếc giường trong phòng ấy.  Căn phòng tất nhiên là sạch sẽ hơn phòng giam rất nhiều vì chỉ có khoảng trên dưới mười bệnh nhân mà lại được dọn vệ sinh hàng ngày.  Nhà cầu thì nằm bên ngoài.  Ngoài hai trại viên được ban giám thị cho phép làm việc ở đó ra thì các bệnh nhân khác đều hầu như kiệt sức hay gần chết, do đó họ không để ý nhiều đến vấn đề an ninh.
Để trị bệnh cho tôi thì họ cho tôi uống những viên thuốc bột sâm dại mà họ thu nhặt ở trong rừng và trồng trong bệnh xá.  Điều quan trọng là tôi được nghỉ ngơi không phải làm gì và còn được ăn uống khá hơn với cơm trắng và nhiều rau.
Vài người bạn của tôi đến thăm, nhưng tôi vờ không nhận ra họ.  Tôi nghe những người làm trong bệnh xá nói với tên cán bộ phụ trách rằng tôi bị kiệt sức về tinh thần lẫn thể xác, do đó tôi hơi bị thần kinh!  Họ cần giữ tôi ở đó để đoán bệnh!  Giống như những trại viên khác bị kiệt lực, không ai có thể sống sót được, nên họ nghĩ sớm muộn gì thì tôi cũng sẽ chết mà thôi.
Trong những ngày đầu nhìn thấy các bệnh nhân lần lượt chết, tôi nghĩ chắc tôi cũng không tránh khỏi.  Tôi cảm thấy mất tinh thần.  Nhưng khoảng một tuần sau, tôi cảm thấy mình khá hơn.  Cái bản năng sinh tồn lại khiến tôi chiến đấu với chính tôi.  Tôi cố dấu sự hồi tỉnh của tôi đi, nhưng trong thâm tâm thì tôi biết rằng tôi sẽ qua được cơn khó khăn này.  Tôi cố làm sao để ở được trong bệnh xá càng lâu càng tốt.  Chỉ có ở đây mới cung cấp cho tôi được những bữa ăn khá hơn một chút và không phải lao động!  Tôi đã không bị bệnh gì nặng mà chỉ bị thiếu ăn.
Đầu tiên tôi nằm suốt ngày suốt đêm khoảng một tuần lễ.  Mỗi khi tỉnh dậy, tôi làm bộ như đang lầm bầm gì đó mà tôi không nhớ được.  Đôi khi tôi hát nhỏ mấy câu hát tự nhiên đến với tôi.  Tôi nghe họ nói với cán bộ phụ trách bệnh xá rằng tôi bị thần kinh nhưng không có triệu chứng gì nguy hiểm!  Điều này tốt cho tôi vì tôi có thể ở bệnh xá chứ không bị cách ly.
Một tháng sau tôi cảm thấy khỏe hơn mặc dù chỉ uống mấy viên thuốc làm bằng sâm dại và uống nước dâu tằm như là một phương thuốc an thần.  Tôi biết rằng tôi không thể nằm mãi, do đó tôi giả vờ nửa tỉnh nửa mê và tự mình kiềm chế mình trong sự giả vờ ấy.  Tôi nhận biết sự việc hay vờ như không biết gì cả tùy theo ý của tôi.  Hàng ngày, khi họ cho rằng tôi tỉnh thì họ bảo tôi làm những việc lặt vặt như lau sàn nhà, nhặt rau cho bửa ăn của bệnh nhân.  Khi họ thấy tôi đi tới lui và lầm bầm cái gì đó thì họ không bảo tôi làm gì cả.  Đôi khi tôi cảm thấy buồn cười cho những hành động của chính mình rồi tự nhiên bật thành tiếng cười giống như tôi đang điên thật vậy.  Mọi người cũng tưởng rằng tôi điên thật!  Nhưng mà tôi cần gì?  Tôi chỉ muốn lấy lại sức trước khi phải trở về buồng giam.  Tôi cũng không cảm thấy mắc cỡ chút nào bởi vì tôi nghĩ rằng mình phải thực hiện câu cách ngôn của người Việt rằng “đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma thì mặc áo giấy” để giả dại qua ải trong lúc này.
Ba tháng sống trong bệnh xá giúp tôi rất nhiều sau này, nhưng tôi lại phải chứng kiến biết nhau sự đau khổ của những trại viên.  Hầu hết những trại viên bị bệnh đưa vào đó đều đã chết vì đuối sức, chết vì bệnh mà không có thuốc và đói mà không có gì để ăn và không được nghỉ ngơi.  Vài bệnh trạng thông thường dễ dàng giết chết họ bởi vì họ không còn sức đề kháng nào cả, và cũng không có gì để chửa trị.  Một trại viên bị vết thương làm chứng uốn ván đã bị bỏ mặc cho chết một cách đau đớn.  Nhiều trại viên bị thổ tả bị chết vì chỉ uống mấy thứ cỏ dại mà thôi.  Vài người khác bị thương trong lúc làm lao động đã chết vì nhiễm trùng mà không có thuốc kháng sinh.  Một trại viên bị các cán bộ đánh nằm chết ói máu bên cạnh giường tôi.  Tôi không nhớ hết đã có bao nhiêu người chết trong thời gian ba tháng mà tôi nằm trong bệnh xá, nhưng tôi nghĩ cái danh từ “nhà xác” được dùng cho bệnh xá quả thật không sai chút nào!
Trong thời gian nằm ở đó, tôi còn được chứng kiến một hoạt cảnh rất lạ lùng.  Một hôm nọ có một phái đoàn của Bộ Nội Vụ đến thăm trại, các cán bộ trong trại đã dời hết những bênh nhân nặng đi đâu mất và thế vào bằng những trại viên khác.  Tôi được ở lại vì lúc đó tôi cũng đã khá hơn nhiều.  Sau đó họ dọn dẹp sạch sẽ bệnh xá rồi đặt ở mỗi đầu giường một hộp sữa đặc, một bộ quần áo tù mới, một gói đường với lời dặn là chúng tôi không được dùng những thứ đó mà chỉ để biểu diễn thôi.  Khi phái đoàn đã đi khỏi trại, họ thu lại hết các thứ ấy rồi mới đưa các bệnh nhân trở về.  Đó chỉ mới là phái đoàn của VC; nếu là một phái đoàn khác thì không biết họ sẽ biểu diễn tới mức nào?
Tôi rất là may mắn đã xuất khỏi bệnh xá một cách lành lặn.  Những “nhân viên bệnh xá” và ông “cán bộ bác sĩ” phụ trách ở đó cho tôi được trở về đội 10 với đề nghị là tôi phải thường xuyên trở lại để tái khám hàng tuần (mặc dù họ không biết khám bệnh là thế nào!)  Họ rất hãnh diện là đã trị cho tôi hết bệnh mà chỉ cần dùng các thứ “thuốc dân tộc”.
Kể từ khi đó, tôi chỉ làm việc như một trại viên coi về kỷ thuật xây dựng cho trại ở đội 10.  Tôi không phải leo lên mái nhà hay khuân vác đồ nặng nề nữa.



Chương 37. Làm Thợ Vẽ.

Những tấm hình mà tôi vẽ vợ con tôi đã đưa tôi đến với công việc vẽ vời ở trại cải tạo Tân Lập.  Khi khám đồ đạc tôi, các thường trực thi đua và cán bộ đã trông thấy chúng và sau đó không lâu tôi được gọi lên để làm điều mà họ gọi là làm “văn hóa” -vẽ và kẻ chữ.
Lần đầu tiên thì Long, người đã tốt nghiệp trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Sài Gòn cùng với tôi phải vẽ hai tấm tranh cổ động cho phong trào thi đua cải tạo của trại viên.  Một tấm lấy đề tài là “lao động” và một có đề tài “học tập”.  Long đã chọn đề tài “lao động” và tự vẽ phát lấy tấm tranh theo ý anh ta; riêng tôi thì hỏi Bích, trưởng ban thường trực thi đua đưa tôi hình trong một tờ báo và vẽ theo đó.  Tôi cảm thấy không an tâm khi vẽ tranh cổ động tự ý mình vì “họ” thường có ý nghĩ về tấm tranh ấy theo cái nhìn của họ, nhất là đối với loại tranh có tính cách tuyên truyền.
Tấm tranh cổ động đầu tiên của tôi rất là đơn giản: một cây bút cắm vào một bình mực và một quyển sách mở rộng nằm trên một cái bàn với một người ngồi phía sau như hậu cảnh.  Tấm hình ở trong tờ báo vẽ theo kiểu đường nét rõ ràng, do đó tôi chỉ có việc phóng đại nó ra cho vừa với khổ của khung vải.
Với một khả năng về nghệ thuật, Long phát tấm tranh của anh ta rất cẩn thận.  Long đã chọn một đề tài khá phức tạp vì việc “lao động” trong trại có nhiều ngành nghề khác nhau.  Anh ta đã tập trung vào đề tài chăn nuôi: Hai trại viên trong bộ đồng phục tù đang cho heo và gà vịt ăn.  Long lại không vẽ bằng đường nét mà vẽ theo hình khối với những màu sắc tương phản để biểu diễn cấu hình của tấm tranh.  Đó rõ ràng là một tấm tranh rất xuất sắc, nhưng tôi lại nghĩ chưa chắc gì nó thích hợp với những người không hề biết và cũng không cần biết gì về nghệ thuật!
Tôi cũng muốn kể lại rằng việc vẽ vời ở trong trại, nhất là trại Tân Lập không đơn giản như ta nghĩ.  Để có được tấm khung vải, chúng tôi đã phải tự làm khung lấy, và lại phải nối những cái mền của những trại viên được thả ra để căng khung vải.  Sau đó, chúng tôi phải cà củ khoai mì ra để nấu hồ trộn với phèn chua để tránh bị lên men rồi phết lên khung vải trước khi bắt đầu vẽ.  Việc này dù sao cũng là một công việc vui vì chúng tôi có thể có thêm khoai mì để ăn.  Màu vẽ lại cũng là một vấn đề.  Chúng tôi không có gì cả ngoài những gì mà chúng tôi có thể thu lượm được trong trại: lọ chảo trộn với dầu hôi để làm màu đen, mực xanh và tím, thuốc đỏ làm màu đỏ, vôi bột làm màu trắng, thuốc ki-nin làm màu vàng, vân vân.  Ngoài ra phải lấy đuôi heo hay thanh tre để làm cọ vẽ.  Mọi cái đều phải “khắc phục khó khăn” như họ thường nói!
Hai tấm tranh cổ động khổ hai thước rưỡi, ba thước được hoàn tất sau một tháng trường.  Rồi lại đến lúc để duyệt trước khi cho treo lên!  Ban Giám Thị trại, Hội Đồng Cán Bộ, và Ban Thi Đua đã họp trong phòng mà chúng tôi để hai bức tranh để phê bình.  Đối bức tranh của Long, họ nói rằng nó rất đẹp, nhưng hình ảnh của hai trại viên trông rất buồn, điều này có nghĩa là Long vẫn chưa an tâm cải tạo và không tin tưởng tuyệt đối vào đường lối chính sách của Đảng và Nhà Nước!  Đối với tấm tranh của tôi thì họ bảo rằng cái bút cắm thẳng vào bình mực trông giống như con dao đâm vào tim!  Bích, trưởng ban thi đua nói rằng tấm tranh của tôi được vẽ từ một tấm tranh cổ động trong tờ nhật báo “Nhân Dân”, do đó họ không có thêm phê bình nào khác.
Sau đó Long bị đưa sang K1 để nhốt biệt giam và tấm tranh của anh ta thì được Phong, một phạm nhân hình sự làm trong bộ phận văn hóa sửa lại.  Tôi không biết rõ tại sao họ lại nhốt kỷ luật Long, vì bức tranh hay vì những hành động trước đó của anh ta.  Long là người đã góp phần trong việc đánh ăn ten trên chiếc tàu “Sông Hương” khi chúng tôi được đưa từ Nam ra Bắc.  Đó là một bài học cho tôi ở trong trại.  Kể từ đó trở đi, tôi không bao giờ tự sáng tạo bất cứ tấm tranh nào.  Khi nào làm công việc “văn hóa”, tôi luôn luôn đòi hỏi những hình mẫu và giử những bản mẫu ấy để tự đề phòng.
Một lần khác, họ bảo tôi vẽ chân dung Hồ Chí Minh, tôi cố tránh bằng cách bảo rằng tôi không quen vẽ chân dung mà chỉ mới học vẽ hình vợ con tôi mà thôi.  Họ bảo Long vẽ chân dung Hồ Chí Minh còn tôi thì vẽ chân dung của Các Mác và Lê Nin.  Tôi chỉ vẽ đen trắng bằng than mà thôi và bảo với họ rằng tôi không biết vẽ chân dung bằng màu.  Long đã vẽ hình của Hồ Chí Minh rất đẹp, nhưng anh ta vẫn bị phê bình là màu da của Hồ trong tranh giống như một xác chết!  Màu sắc tự chế lấy không thể tạo được tấm tranh như ý họ muốn là “sống động”.  May mắn là lần ấy Long chỉ sửa lại thôi chứ không bị kiên giam.
Làm công việc “văn hóa” trong trại đôi khi cũng nguy hiểm, nhưng lại là một việc nhẹ nhàng và có lúc cũng có những “bồi dưỡng”.  Trong những ngày lễ của VC như ngày Độc Lập, ngày Công An Nhân Dân, hay ngày Quân Đội Nhân Dân, công việc của tôi là cắt chữ dán vào vải để làm khẩu hiệu, và rồi chúng tôi đem treo chúng trong hội trường cùng với vài thứ trang hoàng khác.  Sau khi hoàn tất công việc, chúng tôi thường được một bữa ăn đặc biệt, điều này rất có ích cho chúng tôi trong tình trạng thiếu ăn trong trại.
Tôi luôn nhớ ngày Giáng Sinh năm 1977, ngày lễ Giáng Sinh đầu tiên ở trại Tân Lập.  Sáng sớm ngày 24 tháng chạp năm 1977, thường trực thi đua bảo tôi đi trang trí cho khu cơ quan.  Tôi rất ngạc nhiên vì VC không bao giờ cho phép chúng tôi có bất kỳ một thứ lễ nghi tôn giáo nào trong trại.  Tôi không tin là họ tổ chức Lễ Giáng Sinh!  Nhưng sau đó thì tôi khám phá ra rằng họ ăn mừng ngày “Công An Nhân Dân” của họ chứ không phải là ngày lễ Giáng sinh!
Sau khi hoàn tất công việc, họ cho tôi một ít kẹo đậu phọng và đưa tôi trở vô trại.  Mọi thứ đều đã thay đổi.  Để ngăn ngừa trại viên ăn mừng Giáng Sinh, họ đã khám đồ đạc trại viên rồi biên chế để xáo trộn trại viên trong các đội với nhau.  Tôi vẫn ở lại đội 10, đội làm mộc, và các bạn tôi đã giúp tôi mang đồ đạc sang phòng giam khác.  Tối hôm đó chúng tôi có được một ít kẹo của họ cho để ăn lễ Giáng Sinh!
Sau khi được tha ra khỏi biệt giam, Long làm việc trong bộ phận văn hóa còn tôi thì vẫn ở đội 10.  Tôi chỉ làm công tác “văn hóa” trong những ngày lễ hoặc khi họ cần.  Ngoài ra thì tôi cũng không thích làm việc ấy một cách thường trực vì nó khiến tôi phải ở mãi trong trại.  Làm công việc xây dựng khiến tôi cảm thấy có chút gì đó tự do hơn mặc dù có hơi nặng nề hơn.



Chương 38. Vợ Tôi Đến Thăm Nuôi

Năm 1978, sau gần hai năm ở trại Tân Lập, tôi gần như kiệt sức!  Tôi không còn nhận được ra mình nữa khi nhìn vào gương.  Tóc thưa hẳn đi vì nước suối A-Mai có chất độc gì đó đã làm nó rụng quá nhiều.  Mặt mũi thì xanh xao và hai quai càm thì lại bạnh ra do chất độc của acid cyanhydric trong khoai mì ăn hàng ngày chất chứa trong tuyến dưới càm.  Tôi gầy rộc hẳn đi mặc dù trước kia thì tôi cũng vốn đã gầy rồi.
Nhìn các bạn lần lượt ngã ra chết, tôi tự hỏi liệu mình có thể vượt qua được cơn khó khăn này hay không.  Tôi không sợ chết nữa bởi vì điều đó chỉ làm tâm hồn và thể xác tôi trở nên thanh thản hơn mà thôi.  Cái đói hành hạ tôi hàng ngày.  Do sự thiếu ăn và do ăn uống thiếu dinh dưởng, tôi luôn cảm thấy đói ngay cả sau khi vừa ăn xong.  Tôi nghĩ tôi sẽ chết trong vài ngày, vài tuần, hay vài tháng nửa mà thôi, nhưng tôi chẳng quan tâm đến điều ấy nữa.  Hàng đêm, tôi chỉ mong mình ngủ trong bình yên và không bao giờ thức dậy vào sáng hôm sau để khỏi phải chịu đựng cái đau khổ này nữa.  Nhưng tôi không chết!  Tôi nghĩ chắc là tôi đã mắc nợ quá nhiều trong tiền kiếp nên kiếp này phải trả cho dứt.  Dân tộc mình có cái tội là đã diệt chủng một dân tộc Chiêm Thành ở phía Nam của Việt Nam nên chúng tôi phải trả món nợ ấy.
Kể từ tháng tư năm 1977, khi chúng tôi đến trại Tân Lập cho đến tháng sáu năm 1978, chúng tôi không được phép viết cho gia đình một chữ nào.  Sau này gia đình tôi kể lại rằng họ tưởng tôi đã chết ở một nơi nào đó ở miền Bắc rồi.  Họ đã nhờ những người quen biết làm trong chính quyền của VC hỏi dùm, nhưng không ai biết gì về tôi cho đến khi nhận được thư tôi hơn một năm sau.
Cuối năm 1978, sau khi thấy chúng tôi chết quá nhiều, VC mới cho chúng tôi được nhận quà của gia đình với quy định năm kí lô mỗi ba tháng và với một số giới hạn như không được gởi thực phẩm khô, gia vị và muối để đề phòng trốn trại.  Tôi đã nhận được gói quà đầu tiên của gia đình gồm những món rất thông thường nhưng gói ghém biết bao tình thương: mắm ruốc, muối mè, bột gạo lứt, đường đen, và vài loại thuốc men để trị cảm cúm.  Qua bức thư của gia đình, tôi biết được gia đình tôi cũng đã rất nghèo khi họ nói rằng đó cũng là tình trạng chung của đất nước sau chiến tranh.  Họ đã phải chia xẻ cảnh nghèo khổ ấy cho tôi.
Những vật trông rất tầm thường đối với xã hội bên ngoài nhưng rất quý giá đối với trại viên trong trại cải tạo, nó có thể giúp chúng tôi vượt qua được bao nhiêu là sự khó khăn ngay cả nó có thể giúp chúng tôi sống sót được nữa.  Giống như cây cối bị khô hạn lâu ngày, một cơn mưa rào có thể làm nó xanh tươi lại!  Với một ít thêm vào bữa ăn hàng ngày khiến sức khỏe chúng tôi phục hồi rất nhanh; một vài loại thuốc thông thường như Aspirine, Tylenol, Vitamin, có thể trị được những bệnh đã tiềm ẩn lâu ngày vì chỉ uống mấy thứ “thuốc dân tộc” -những thứ lá cây rừng phơi khô-
Đầu năm 1979, gia đình trại viên được phép đến trại để thăm nuôi, nhưng rất hiếm hoi.  Chỉ một vài gia đình có thân nhân ở miền Bắc là đến được vì phương tiện di chuyển từ Nam ra Bắc còn rất khó khăn và hạn chế.  Để đến trại từ Sài Gòn, thân nhân chúng tôi phải mất hàng mười ngày cho một chuyến đi!  Họ còn phải xếp hàng đợi thật lâu mới có thể mua được vé xe lửa, đôi khi phải mất hai ba ngày.  Từ Sài Gòn đến Hà Nội, xe lửa chạy mất ba bốn ngày.  Rồi lại chờ “tầu chợ” (loại xe lửa đường ngắn) ở ga Hàng Cỏ để đến ga Ấm Thượng, mất thêm hai ngày nữa.  Từ ga Ấm Thượng đến Bến Ngọc phải đi đò dọc theo sông Hồng và suối A-Mai.  Đi vào trại từ Bến Ngọc, gia đình chúng tôi không có phương tiện nào khác ngoài cách đi bộ mười lăm cây số với đồ đạc nặng nề trên vai.  Cho đến khi có nhiều thân nhân đến thăm nuôi, trại mới dùng một chiếc xe ngựa để đưa rước.
Bên cạnh sự khó khăn về di chuyển, cướp bóc dọc đường còn là một điều rất thường xuyên xảy ra nữa.  Rồi còn chuyến đi về Nam, do đó người đi thăm nuôi phải mất hàng tháng cho một chuyến đi để chỉ được gặp trại viên trong thời gian mười lăm đến hai mươi phút.  Điều đó có đáng hay không?  Chỉ có tình thương mới giúp họ làm được việc ấy mà thôi.
Trong bức thư gửi cho tôi năm 1979, vợ tôi dường như có ý định đi thăm tôi.  Vợ tôi viết rằng ít ra thì cũng có thể gặp tôi được một lần, nhưng mà cô ấy chưa có tiền!  Bức thư ấy khiến tôi ở trong tình thế lưỡng nan.  Tôi rất muốn gặp vợ tôi, nhưng lại không muốn cô ấy chịu cực khổ vì chuyến đi.  Vợ tôi không khỏe mạnh như nhiều người khác.  Tôi viết thư trả lời để ngăn cản ý định ấy của vợ tôi.  Tôi bảo rằng tôi luôn yêu thương cô ấy, nhưng tôi không muốn cô ấy phải chịu cực khổ vì chuyến đi như thế.  Vài gói quà của gia đình là đã giúp tôi nhiều lắm rồi, tôi chỉ muốn cô ấy an tâm để nuôi con mà thôi.  Tình yêu mà cô ấy dành cho tôi là một động lực để giúp tôi vượt qua được cảnh ngộ này rồi.
Vào tháng sáu năm 1979, khi mà tôi không trông mong gì cả thì một hôm tôi lại được gọi ở lại trong trại trong khi đội xuất trại đi lao động.  Họ bảo rằng tôi có người đến thăm nuôi.  Tôi rất kinh ngạc và đoán rằng có lẽ là vợ tôi đến.  Không còn bộ quần áo cá nhân nào, tôi phải lựa một bộ đồng phục tù còn tương đối mới để mặc.  Tôi không có được tấm gương để trông xem mình ra thế nào, nhưng tôi biết tôi trông rất kỳ khôi!  Tôi không muốn vợ tôi trông thấy tôi như thế này, nhưng tôi phải làm sao đây?  Hai năm rưỡi về trước gặp nhau ở trại Thủ Đức, tôi đâu đến nỗi như thế này.  Ở trại Thủ Đức thì dù sao chúng tôi cũng đủ ăn và không phải lao động quá nặng nề, và tôi còn có quần áo riêng để mặc khi ra thăm không đến nỗi kỳ quặc như thế này.  Hai năm ở trại Tân Lập gần như đã giết chết tôi, dù không giết chết ngay tức thì nhưng cũng đã từng bước một.  Tôi không còn là tôi nữa!
Tôi bước đi trên con đường đến nhà thăm nuôi như một người không có linh hồn.  Chỉ có một phần hạnh phúc xen lẩn với không biết bao nhiêu nỗi lo lắng trong lòng!  Vợ tôi ra sao?  Làm sao cô ta có thể chịu đựng được một cuộc hành trình xa xôi và vất vả như thế?  Gia đình tôi thế nào?  Con tôi ra sao?  Hàng trăm câu hỏi xâm chiếm lấy đầu óc tôi trên con đường đi đến nhà thăm nuôi.
Vợ tôi đang đứng ở ngưỡng cửa với những người khác khi tôi đi đến nơi.  Chúng tôi ngồi hai bên chiếc bàn lớn với tên cán bộ ngồi ở đầu bàn quan sát.  Tôi cố vói qua nắm lấy tay cô ta và siết chặt.  Những gì mà chúng tôi đã nói với nhau tôi không thể nhớ được, nhưng tôi nghĩ rằng tôi chỉ đủ thời gian để hỏi về gia đình, về con tôi, về cuộc sống của vợ tôi khi không có tôi ở nhà!  Hơn một tuần lễ đi đến và rồi còn thời gian trở về mà chỉ gặp nhau được hai mươi phút, tôi nghĩ là không đáng cho sự chịu đựng của vợ tôi chút nào.
Cô ấy trông vẫn trẻ, vẫn “mỏng manh”, vẫn là tình yêu của tôi như thuở nào, nhưng tôi thấy dường như xa xôi làm sao, dường như đến từ thiên đàng để gặp một người ở địa ngục!  Cô ấy cho biết rằng cô ấy đi cùng với Ngọt, vợ của Tuân.  Họ là bạn ở trung học, bạn có chồng làm chung với nhau, và bạn có chồng cùng ở tù chung nữa!  Tôi cảm thấy hơi an lòng một chút khi biết rằng vợ tôi không phải đi một mình.  Khi từ giã, tôi nhìn thấy ngón chân vợ tôi bị băng.  Cô ấy cho tôi biết rằng thùng quà đã bị rơi khi cô ấy chất nó lên xe ngựa.  Họ đã phải đi bộ từ Bến Ngọc vào đến trại vì có nhiều người đến thăm hôm ấy; chiếc xe ngựa đã chất quá đầy.
Vợ tôi đã chịu bao nhiêu là khó khăn để đến thăm tôi, và còn con đường về nữa?  Điều ấy cứ lởn vởn trong đầu óc tôi mãi khi tôi trở vào trại.  Tôi đặt hai thùng và một giỏ quà lên chổ rồi nằm đó mà nghĩ đến vợ tôi.  Cô ấy vẫn còn ở ngoài nhà thăm nuôi để chờ Ngọt đang thăm chồng bên K3.  Chỉ có một hàng rào ngăn cách giữa vợ tôi với tôi, nhưng sao mà xa xôi quá như vậy!  Hai mươi phút gặp nhau trôi qua như một giấc mơ mà tôi không thể nào quên được.  Tôi còn có thể gặp được vợ tôi nữa không hay đây là lần cuối cùng?  Những gói quà này chứa đầy tình yêu.  Nó sẽ giúp tôi rất nhiều trong những ngày tháng sắp tới, nhưng điều quan trọng nhất đối với tôi lúc ấy chính là tình yêu của vợ tôi dành cho tôi vẫn còn hiện hữu.
Tôi không thể chợp mắt được suốt đêm, mong tiếng kẻng báo thức.  Điều đầu tiên khi ra đến nhà lô là hỏi Lung, cán bộ quản giáo của đội, dẫn tôi trở lại nhà thăm nuôi, nhưng mà vợ tôi đã đi cùng với Ngọt rồi.  Tôi thất vọng đi trở về nhà lô không còn làm được gì nữa cả.
Vợ tôi viết trong bức thư sau đó rằng cô ấy chỉ muốn ở lại với tôi một đêm thôi để có thể tâm sự được với nhau.  Hai mươi phút trôi qua quá nhanh, nhưng cô ấy cảm thấy hãnh diện vì các bạn đi cùng bảo rằng tôi trông vẫn còn trẻ và trông không đến nỗi tệ hại như họ nghĩ! (ngay cả trong bộ đồng phục tù!)
Kể từ khi có nhiều trại viên được thăm nuôi thì bộ mặt của trại thay đổi hẳn ra.  Những trại viên có thân nhân ở nước ngoài gởi tiền về được thăm nuôi thường xuyên, vài người không ăn cả phần ăn của trại và chia nó ra cho những người khác.  Các trại viên “cô nhi” có thêm được một ít trong tiêu chuẩn ăn hàng ngày, và giống như nắng hạn gặp mưa rào, mọi người trở nên khỏe mạnh hơn lên.
“Đội lâm sản” và “đội vận chuyển” đã được giao cho các trại viên miền Nam.  Chúng tôi bắt đầu liên hệ với dân chúng sống trong vùng quanh trại, và họ cũng đã bắt đầu làm quen với người miền Nam thông qua gia đình trại viên.  Một số người dân có thêm một công việc mới, đó là giúp gia đình đến thăm mang đồ đạc và chuyển vào trại bằng xe đạp.
Ở vùng hẻo lánh như nơi đó thì thời trang Sài Gòn là một điều rất hấp dẫn đối với những người dân không đủ quần áo để mặc.  Khi những người Sài Gòn đến nơi thì trẻ con chạy theo nhìn, những cô gái thì ngắm nhìn rồi bàn tán, những người đàn ông thì huýt sáo.  Trong một bức thư vợ tôi gửi tôi sau này, cô ấy nói rằng khi Ngọt và cô ấy đi vào trại thì thấy các đứa trẻ quần áo tả tơi chạy theo và bảo nhau đi xem các “tài tử”.  Cô ấy không thể ngờ rằng lại có những người dân còn nghèo khổ đến như thế.
Khi đã có nhiều người đến thăm nuôi, dân chúng trong vùng và cả gia đình cán bộ có thêm được một nghề mới, bán đồ đạc cho thân nhân và cho trại viên.  Dân chúng đi mua những món hàng từ các thành phố gần đó về bán dọc theo con đường từ Bến Ngọc đến trại.  Người đi thăm nuôi không phải mua những thứ nặng nề hoặc những thức ăn tươi từ Hà Nội nữa.  Cán bộ và gia đình còn mang cả đồ vật vào trại bán cho các trại viên đã dấu tiền khi thăm nuôi.  Mặc dù nội quy không cho mang tiền vào trại, nhưng rồi họ cũng làm ngơ.
Cuộc sống trong trại càng lúc càng dễ dàng dần.  Cán bộ trực trại có lúc đã bán cả rượu cho trại viên và vào uống với trại viên.  Vào Tết năm 1982, họ nói rằng tổng số rượu mang vào trại lên tới con số trên hai trăm lít!  Các cán bộ nữ thì bắt đầu học khiêu vũ với trại viên trong đội văn nghệ.  “Nhạc vàng” vẫn bị cấm trong trại, nhưng các cán bộ lại bảo trại viên dạy cho họ hát.  Tất cả những thứ đó trông giống như một sự tranh đấu giữa hai thứ văn hóa: cái văn hóa của người thắng trận và cái văn hóa của kẻ bại trận.  Điều đó khiến tôi nhớ tới tình trạng của dân Mãn Thanh sau khi chiếm được nước Trung Hoa lập nên nhà Thanh rồi sau đó lại bị người Trung Hoa đồng hóa ngược lại vì Mãn Thanh là một dân tộc không có nền văn hóa phát triển như Trung Hoa.
Cộng Sản thường nói rằng “ai thắng ai giữa chủ nghĩa Cộng Sản và chủ nghĩa Tư Bản”.  Tôi nghĩ đây là một dịp để nhìn thấy được sự thật ấy.  Họ đã thắng trong cuộc chiến, nhưng chiến tranh của hai nền văn hóa vẫn còn tiếp tục.  Họ đã đốt hết sách vở của miền Nam, cấm ca hát “nhạc vàng”, cấm thời trang miền Nam, và thay vào đó bằng sách vở, ca nhạc, và thời trang của họ.  Giờ đây họ lại muốn nghe nhạc vàng, muốn khiêu vũ kiểu miền Nam.  Đó chính là dấu hiệu đầu tiên để trả lời câu hỏi “ai cải tạo ai, hay là ai thắng ai?”

(Hết chương 34 – 38 .  Xin xem tiếp chương 39 – 43)

No comments:

Post a Comment