Friday, March 21, 2014

17 Năm Trong Các Trại Tù Cải Tạo Của CSVN (chương 1 – 4)





Hồi Ký Kale:

Được đề cập:  Tổng Hội Sinh Viên Sài Gòn…,Huỳnh Tấn Mẫm…,  nhóm Bừng Sống,… Ban A17…, “Lực Lượng Thanh Niên Cứu Đói”…, “Nhóm Ký Giả ăn mày” …, luật gia Ngô Bá Thành…, Phật Giáo Ấn Quang…, ni sư Huỳnh Liên… 

17 Năm Trong Các Trại Cải Tạo Của CSVN

 Phong Quang 1976 tù cải tạo 
Lời Mở Đầu
Tôi không là văn sĩ, và cũng không có tham vọng làm một nhà văn.  Tôi không phải là một nhà ái quốc theo đúng nghĩa của nó.  Tôi chỉ là một người Việt Nam bình thường, làm những công việc bình thường trong một quốc gia không bình thường!  Giống như hàng trăm ngàn người ở miền Nam Việt Nam sau ngày 30 tháng tư năm 1975, tôi đã vào những trại tập trung của Cộng Sản, cái mà chúng đặt tên là “Trại Cải Tạo”, để rồi đã phải trải qua suốt gần 17 năm dài ở trong ấy.  Viết những trang hồi ký này, tôi chỉ muốn làm một chứng nhân của một giai đoạn lịch sử chứ không có tham vọng kết án những cái gọi là “tội ác của Cộng Sản” hay nêu gương những người anh hùng bất khuất ở trong đó.
Những người Việt “Quốc Gia” mà trong đó có tôi đã thất bại trong cuộc chiến mà người Mỹ đặt tên là “Chiến Tranh Việt Nam” – cuộc chiến của Mỹ ở chiến trường Việt Nam -.  Tôi không biết kết quả thật sự của cuộc chiến ấy là người Mỹ đã thắng hay bại mặc dù sau khi “Chiến Tranh Việt Nam” chấm dứt thì khối Cộng Sản đã lần lượt sụp đổ, nhưng điều mà tôi thấy rõ là những người Việt Quốc Gia đã phải chết trong các Trại Cải Tạo của Cộng Sản hay đang phải lưu vong khắp thế giới, và những người Việt Cộng Sản đang ngự trị trên toàn lảnh thổ Việt Nam.  Chúng ta đã thất bại vì chúng ta đã không nêu được cái chính nghĩa “Quốc Gia” trong khi “Việt Cộng” có cái chính nghĩa “Giải phóng” đất nước của họ.  Những nhà lãnh đạo của chúng ta đã làm gì trong thời gian chiến tranh, điều đó hẳn là hầu hết chúng ta đã nhìn thấy!  Chúng ta đã bị lãnh đạo bởi những người chỉ biết nghĩ đến quyền lợi cá nhân hay tập đoàn hơn là quyền lợi chung của đất nước.  Chúng ta mệnh danh là những người “Việt Quốc Gia” nhưng lại trở thành những người đánh thuê cho Mỹ.  Khi Mỹ rút lui thì chúng ta không còn một khối người “Việt Quốc Gia” nữa mà đã trở thành những toán quân rã ngũ.  Đa số những nhà lãnh đạo thì lo đi tìm sự an toàn riêng cho bản thân và gia đình họ, phần lớn còn lại thì âm thầm hoặc tìm phương lẩn trốn ra nước ngoài hoặc nộp mình vào các trại cải tạo để mong hưởng sự “khoan hồng” của “Đảng và Nhà Nước”.
Ở trong trại Cải Tạo, chúng ta cũng không có một sự đoàn kết nào mà lại sống âm thầm, nghi ngờ nhau, đổ lổi nhau, hoặc tự chia rẽ nhau.  Cộng Sản đã khai thác triệt để những nhược điểm ấy để dể điều hành các trại cải tạo của họ.
Mỗi người Việt Nam đều có trong đầu một ông quan”, không biết cái thành ngữ này có đúng hay không, nhưng tôi thấy không ai trong chúng ta muốn làm một con ốc trong một cổ máy mà chỉ muốn làm người điều hành cổ máy ấy mà thôi, để rồi rốt cuộc thì chẳng ai có một cổ máy nào để điều hành!
Chúng ta đã thất bại và những người Cộng Sản đã chiến thắng.  Điều ấy là một thật tế không thể chối cải được!  Mặc dù giờ đây thì đất nước ta đang bị cai trị bởi một chủ nghĩa “phi nhân” trong khi cả thế giới đã phải từ bỏ, điều quan trọng mà tôi thấy được là đất nước ta không còn chiến tranh nữa, dân tộc chúng ta không còn chết chóc tang thương nữa.  Phần còn lại của chúng ta và của các thế hệ mai sau là làm thế nào để đất nước Việt Nam chúng ta thoát khỏi những tắc nghẽn của một chủ thuyết sai lầm để mà tiến lên.
Tôi viết những trang hồi ký này chỉ để ghi lại những gì đã diễn ra cho chính bản thân tôi cũng như cho những người bình thường nhất ở trong những cái gọi là “Trại Cải Tạo” của Cộng Sản.  Tất nhiên còn nhiều điều mà tôi không được chứng kiến hay trải qua, cũng như những điều mà tôi không thể nào nhớ hết được.  Vì thế tôi mong những ai đã sống trong giai đoạn ấy nên ghi lại và tổng hợp thành một bức tranh toàn diện về các trại cải tạo của Cộng Sản Việt Nam.
Như tôi đã nói, tôi không là một nhà văn cho nên không có trình độ để trao chuốt văn ngôn.  Các bạn đọc nên xem đây như là một lối kể chuyện của một người bình thường.  Đối với những ai đã sống trong các trại cải tạo thì coi như đây là một đóng góp để nhớ lại thời gian đen tối và đau khổ của chúng ta.  Còn đối với những ai chỉ nghe nói đến hai chử “Cải Tạo” thì coi như đây là một sự tìm hiểu thêm về một giai đoạn của đất nước.



Ghi nhớ tất cả các bạn đồng cảnh và

những người đã chết trong các trại Cải Tạo.

Gữi tất cả tình thương về mẹ!



KALE

Phần 1

Tôi Đã Ở Lại

Chương 1 .Dấu Hiệu Đầu Tiên: Cuộc Di Tản Chiến Thuật.

Trước ngày 30 tháng tư năm 1975, những tin tức về sự mất mát ở các tỉnh miền Trung Việt Nam đã khiến tôi rất lo lắng.  Là nhân viên của cơ quan tình báo chính quyền Nam Việt Nam, điều gì sẽ xãy đến cho tôi một khi Cộng Sản tiến vào Sài Gòn?  Tôi đã nghe thấy nhiều về những sự thãm sát ở Huế khi Cộng Sản tiến vào thành phố ở miền Trung này vào Tết Mậu Thân, 1968.  VC dùng dây kẽm gai cột người ta lại với nhau rồi chôn sống; VC bắt người ta phải tự đào hố rồi bắn chết họ trong ấy. . . . Những cuộc di tản của hàng trăm ngàn người từ những thành phố miền Trung là một bằng chứng xác minh sự sợ hải của nhân dân đối với Cộng Sản.  VC tạo sự kinh hoàng trong nhân dân ngay cả đối với những người dân thường.  Dưới chiêu bài giải phóng, VC tạo nên cuộc chiến để nhằm thôn tính miền Nam Việt Nam; chúng thành lập Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và bắt đầu cuộc chiến chống lại chính phủ Việt Nam Cộng Hoà mà chúng gọi bằng ngụy quyền miền Nam Việt Nam.
Khi quân đội Mỹ vào Nam Việt Nam, VC đổi chiến tranh Việt Nam thành cuộc chiến chống lại cái mà chúng gọi là Đế Quốc Mỹ.  Chúng đồng hoá Mỹ với Pháp; chúng nhập chung cuộc chiến tranh Việt Nam với cuộc chiến chống Pháp thành một.  Thật ra, Cộng Sản đã cướp công của nhân dân Việt Nam trong cuộc chiến chống Pháp để rồi chúng thôn tính miền Bắc Việt Nam biến thành một quốc gia theo chủ nghĩa Cộng Sản.  Việt Nam bị chia thành hai quốc gia: Miền Bắc Cộng Sản và Miền Nam Dân Chủ.  Hai nước sẽ phát triển riêng rẽ để chờ một cuộc thương thuyết để thống nhất đất nước.  Thể chế chính trị của quốc gia sẽ định đoạt bởi người dân qua một cuộc tổng tuyển cử dưới sự kiểm soát của tổ chức quốc tế.  Tôi không muốn kể lại đây lịch sử của đất nước tôi vì đã có nhiều sách vở đề cập đến vấn đề này, nhưng vì có vài chi tiết có liên quan đến việc tôi đã ở lại đất nước trong khi hàng trăm ngàn người dân đã ra đi trong những ngày của cái gọi là “giải phóng” của Cộng Sản.
Ba tôi đã gia nhập tổ chức Việt Minh, một tổ chức do Cộng Sản thành lập nhằm mục đích quy tụ dân chúng để chống Thực Dân Pháp.  Ông đã bị giết trong cuộc chiến ấy vào năm 1952, trước khi hoà ước Genève được ký kết, do đó tôi là con của một gia đình có người anh hùng đã chết trong chiến tranh, một “liệt sĩ” theo như danh từ của Cộng Sản.  Tôi không thể hình dung được cha tôi như thế nào vì ông đã chết khi tôi mới lên bảy, và ông đã bỏ nhà đi vào mật khu từ khi tôi mới lên hai.  Tôi nghe nói ông là một cán bộ kinh tài của quân du kích.  Trên đường đi công tác, ông cùng một người bạn bị phục kích và bị giết sau khi ông đã bắn chết hai lính lê dương và một lính Pháp.  Tôi vẫn thường có một ít tự hào về cha tôi.  Tôi còn có ba anh chị họ tập kết ra Bắc vào năm 1954, và tôi có nghe nói họ đã đi du học ở các nước Xã Hội Chủ Nghĩa.  Một người bác của tôi cũng là một người Cộng Sản; ông ta bị bắt nhốt ở trại tù Côn Nôn từ năm 1956 đến năm 1962.  Sau khi thả ra, ông lại tiếp tục hoạt động cho VC và chết năm 1970; ông ta cũng là một liệt sĩ!  Với một gia đình như vậy, đôi lúc tôi nghĩ đơn giản rằng VC sẽ không trừng phạt tôi một khi chúng vào Sài Gòn.
Mặt khác, tôi nghe nói rằng Cộng Sản là những người vô gia đình, vô tôn giáo, vô tổ quốc; họ chỉ có duy nhất Đảng Cộng Sản của họ mà thôi!  Trong tình trạng mập mờ đó, tôi không thể tưởng tượng được họ sẽ đối xử với tôi thế nào khi sự việc xãy ra!
Sự thiếu hiểu biết về Chủ nghĩa Cộng Sản, về những người Cộng Sản khiến tôi cùng nhiều người dân miền Nam bị lẩn lộn giữa những người Cộng Sản với những nhà ái quốc.  Khi còn trẻ, tôi vẫn thường tôn sùng những người Cộng Sản, đặc biệt là Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp, tôi đã đồng hoá họ với những nhà ái quốc.  Tôi cũng từng nhập chung cuộc chiến tranh Việt Nam với cuộc chiến chống Thực Dân Pháp của nhân dân Việt Nam.  Tôi đã từng làm nhiều bài thơ yêu nước đăng trên những tạp chí Sinh Viên.  Thêm vào đó, sự lộn xộn của chính phủ Nam Việt Nam từ Tổng Thống Ngô đình Diệm đến Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu khiến mọi người dân miền Nam trông chờ một chính phủ vững mạnh ngỏ hầu có thể xây dựng đất nước.  Hầu hết nhân dân miền Nam thường trông về cơ cấu chính quyền miền Bắc như một mẫu mực mà họ mong muốn.  Thủ tướng Phạm Văn Đồng của Bắc Việt đã ở tại vị từ năm 1954 đến năm 1975 có lẽ là một minh chứng hùng hồn cho một cơ cấu chính quyền vững chắc!
Mặc dù có nhiều điều tồi tệ đã xãy ra trong khối Cộng Sản, từ Liên xô, Trung Quốc, và các nước Đông Âu, chúng tôi vẫn hy vọng Cộng Sản Việt Nam sẽ khác hơn.  Những cuộc đấu tố ở miền Bắc trong giai đoạn cải cách ruộng đất sau 1955 với những cảnh con cái đấu tố cha mẹ, vợ đấu tố chồng, cũng chưa đủ thuyết phục để nhân dân oán ghét Cộng Sản.  Những hình ảnh về cuộc thãm sát tại các vùng tạm chiếm của Cộng Sản bị nghi ngờ là chiến thuật tuyên truyền của Chính Phủ Nam Việt Nam.   Dân chúng bị lẫn lộn giữa cái tốt và cái xấu về những người Cộng Sản.  Họ không thể phân biệt giữa chủ nghĩa Yêu Nước với chủ nghĩa Cộng Sản.
Cuộc di tản chiến thuật khỏi Buôn Mê Thuột, Đà Nẵng được loan báo như một việc thực thi Hiệp Định Paris.  Tôi chẳng biết gì về nội dung của Hiệp Ước này, nhất là những điều mật ước mà tôi nghe nói về việc phân chia đất nước tại vĩ tuyến 12 ở Phan Rang, một tỉnh miền Trung, để nhường cho Mặt Trận Giải Phóng.  Hầu hết những gì tôi nghe được thường là những tin đồn.  Trong một quốc gia đang có biến động chính trị, tin đồn nhiều khi còn được tin tưởng hơn những gì mà chính phủ phổ biến.
Mặc dù là một nhân viên tình báo của chính quyền Nam Việt Nam, tôi không hề học tập về Chủ Nghĩa Cộng Sản.  Trong nhiệm vụ hàng ngày, tôi chống lại những tổ chức của Sinh Viên thuộc Viện Đại Học Sài Gòn.  Tôi chỉ biết rằng đó là những tổ chức con đẻ của Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh, một tổ chức của VC.  Tôi đã thành công trong việc tái chiếm Ban Đại Diện Sinh Viên Đại Học Khoa Học vào năm 1972 từ trong tay của nhóm Bừng Sống, một tổ chức của Cộng Sản.  Mặc dù bị lên án tử hình trên đài phát thanh giải phóng vê việc ấy, tôi vẫn thờ ơ.  Họ chỉ biết bí danh tôi chứ không biết tên thật của tôi, hơn thế nữa, tôi vẫn đang sống trong vùng của mình.  Ngược lại, nếu Cộng Sản chiếm Sài Gòn, điều gì sẽ xảy ra cho tôi một khi họ biết tôi là ai?  Sự lo lắng cộng với sự thiếu hiểu biết khiến tôi không còn biết phải làm gì.



Chương 2 . Những Điều Đó Xảy Ra Chính Trong

Gia Đình Tôi.

Ngày 19 tháng tư năm 1975, sau khi đưa vợ tôi vào văn phòng để làm việc, tôi ghé qua nhà mẹ tôi như thường lệ.  Tôi gặp Tài, em tôi vừa từ Đà Nẳng về đến nhà.  Tài là trung sĩ Thông Dịch viên trong Hải quân Nam Việt Nam.  Đà Nẳng là một thành phố lớn ở miền Trung và cũng là một hải cảng quan trọng.  Tài chỉ còn một bộ đồ dính thân vì đã phải trải qua bao nhiêu phương tiện mới về được đến nhà.  Em tôi đã kể lại cho nghe bao nhiêu chuyện kinh khủng mà nó đã chứng kiến trên đường đi từ Đà Nẳng về Sài Gòn.  Khi ở trên một chiếc tàu, một người đàn bà nhờ nó bế dùm đứa con để bà ta đi tìm một đứa khác đã bị thất lạc; sau đó bà ta biến mất vào đám đông.  Nó không biết phải làm sao, và làm thế nào để bế đứa trẻ về nhà trên một lộ trình quá xa như thế, do đó nó đưa đứa trẻ cho một người lạ rồi chạy đi mất.  Dân chúng chen chúc nhau leo lên tàu; nhiều người bị rơi xuống biển chết chìm.
- “Tại sao em không đi luôn ra ngoại quốc?”  Tôi hỏi Tài.
- “Vì họ ra lệnh về Sài Gòn để chống lại VC.”
- “Em có thấy VC vào Đà Nẵng không?”
- “Không, tôi chẳng thấy ai ngoài dân chúng di tản khỏi Đà Nẳng.  Họ ra lệnh chúng tôi rời Đà Nẳng cho VC, nhưng tôi chẳng thấy VC nào trong thành phố khi tôi rời nơi ấy.  Tôi cũng không hiểu sao chúng ta lại thất bại mà không có cuộc đụng độ nào.”
- “Em có nghe nói gì về những mật ước của Hoà Ước Paris không?”
- “Họ nói nhiều về những điều này, nhưng thật ra tôi không được ai phổ biến một cách chính thức hết khi họ ra lệnh rời Đà Nẵng.”
- “Làm sao em về được đến nhà?”  Tôi tò mò hỏi.
- “Đầu tiên, tôi đi theo tàu tôi về đến Cam Ranh.  Từ đó đến Vũng Tàu, tôi lên được một chiếc tàu của Hải Quân Mỹ vì tôi là Thông dịch viên.”
- “Sao tàu em không về Sài Gòn?”
- “Tôi không biết; nó đi luôn ra đảo Phú Quốc.”
- “Em thấy gì trên đường về Sài Gòn?”
- “Dân chúng sợ hải; họ nói đến VC và những cuộc tàn sát dù họ chẳng thấy một tên VC nào trong thành phố.  Họ chen chúc nhau trên đường ra hải cảng.  Họ chất mọi thứ lên xe đạp, xe gắn máy, hay gánh lên vai.  Trẻ con khóc lóc vì lạc mất cha mẹ; vài người nằm chết trên vỉa hè.  Hàng ngàn người dân rời bỏ nhà cửa khi nghe VC về đến hoặc nghe các đơn vị quân đội ta rút lui.  Anh làm trong Phủ Trung Ương Tình Báo, anh có biết gì về chương trình của Chính Phủ hay của Mỹ đối với tương lai của đất nước ta hay không?”  Tài bất thần hỏi tôi.
- “Không!”  Tôi lúng túng trả lời.
Tôi bảo Tài lấy quần áo tôi thay ra vì nó quá dơ sau hơn mười ngày đường.  Khoảng 10 giờ, Lân, anh họ tôi từ cơ quan đến.  Anh ấy là thượng sĩ Hải Quân.  Vào Quân Đội từ năm 1962, anh ta làm về truyền tin trong Hải Quân Việt Nam ở tại Bộ Tư Lệnh Hải Quân Sài Gòn.  Anh ấy đến hỏi tôi có định sửa soạn đi với anh ta ra ngoại quốc khi cần thiết không.  Tôi trả lời anh ấy: “Tôi nghĩ chắc Cơ Quan của tôi đã chuẩn bị chương trình riêng cho nhân viên rồi.  Trong trường hợp khẩn cấp, tôi sẽ gặp anh ngay.”
Thật ra tôi không biết phải làm sao trong lúc ấy.  Nghe tin về trình trạng căng thẳng của đất nước, tôi rất phân vân.  Chúng ta có thể chiến đấu chống lại VC nếu họ tiến vào Sài Gòn; tại sao lại phải rời bỏ đất nước mà không chiến đấu chứ?  Quân Lực chúng ta vẫn hùng mạnh.  Vũ khí chúng ta vẫn còn đầy đủ ngay cả nếu Mỹ có ngưng viện trợ đi nữa.  Tôi không thể hiểu nỗi tại sao chúng ta lại thua khi chúng ta đang giành được chiến thắng trên mặt trận và ngay cả ở hậu phương.  Những sự rút lui của các đơn vị quân lực chúng ta khỏi các tỉnh miền Trung mà không có một trận đánh nào xãy ra đã làm dân chúng đâm ra hoang mang sợ hãi.  Dân chúng di tản khỏi các thành phố mặc dù chưa thấy một VC nào tiến vào.  Toàn bộ sự kiện ấy đã tạo nên một sự rối ren chưa từng thấy cho đất nước.
Tôi nhìn ra đường phố trước nhà.  Tiệm sửa xe đạp và xe gắn máy vẫn mở cửa như thường lệ.  Tiệm tạp hoá vẫn ồn ào.  Tiệm may và hớt tóc vẫn có khách.  Vài người bán hàng rong đang rao hàng.  Bộ hành vẫn ung dung.  Xe hơi, xe gắn máy, và xe đạp vẫn qua lại.  Mọi cái dường như vẫn sinh hoạt bình thường; không thấy một dấu hiệu nào của chiến tranh.  Dân chúng Sài Gòn đã quá quen thuộc với chiến tranh kể từ năm 1945; họ nghe tiếng súng một cách lơ đểnh ngoại trừ trường hợp nó nổ ngay bên cạnh họ.
Năm 1954, một triệu người dân miền Bắc di cư vào Nam; họ đã kể lại bao nhiêu điều ghê gớm về Cộng Sản, nhưng dân miền Nam vẫn nghi ngờ.  Dân miền Nam đoán rằng những người dân miền Bắc vì quá nghèo đói đã vào Nam để kiếm sống.  Chủ nghĩa Cộng Sản hay Chủ Nghĩa Xã Hội trong đầu óc của người miền Nam chỉ đồng nghĩa với sự đói nghèo.  Sự tuyên truyền của Chánh Phủ Nam Việt Nam không đủ để chiêu dụ nhân dân miền Nam chán ghét chế độ Cộng Sản, thường thì dân chúng nghĩ đến quyền lợi của họ hơn là lý tưởng chống Cộng.  Bên cạnh đó, họ vẫn cho rằng nếu VC tiến được vào Sài Gòn, họ có thể có đủ thời gian để rời khỏi đất nước: Cuộc di cư của hàng triệu dân miền Bắc sau hiệp định Genève là một minh chứng cho ý nghĩ đó.
Tôi vẫn nghĩ đã có sẵn  một kế hoạch di tản riêng của cơ quan tôi khi sự việc diễn ra, nhưng tôi lại nghĩ mọi việc không đến nỗi quá tồi tệ đến như vậy!  Tôi chẳng hề muốn đi đến Mỹ hay bất cứ một quốc gia nào khác.  Tôi sẽ ở lại đất nước nếu Cộng Sản để tôi làm một người dân bình thường, nếu không có sự trả thù.  Mặc khác, tôi nghĩ Việt Nam sẽ tạm thời là một quốc gia trung lập khi chiến tranh chấm dứt.  Một cuộc thương thuyết sẽ diễn ra sau đó để bàn về việc thống nhất đất nước.  Trong thời gian ấy, tôi có thể chọn lựa giữa việc ở lại hay ra đi.
Chiến tranh Việt Nam là cuộc Nội Chiến hay cuộc chiến giữa Chủ Nghĩa Cộng Sản và Chủ Nghĩa Tư Bản, cuộc chiến tranh Giải Phóng hay cuộc chiến tranh Ý Thức Hệ.  Đó chỉ là những danh từ!  Dân tộc Việt Nam ước muốn chấm dứt cuộc chiến ấy càng sớm càng tốt dù họ chưa biết điều gì xảy ra sau đó.
Trên hai mươi năm chịu đựng chiến tranh, dân tộc Việt Nam đã quá chán ngán; chính tôi cũng thế!  Sinh ra năm 1945, năm của Đệ Nhị Thế Chiến; Nhật Bản xâm chiếm đất nước tôi từ tay Thực Dân Pháp.  Tôi đã sống qua ba cuộc chiến chống Nhật, Pháp, và cái gọi là chiến tranh Giải Phóng.  Tôi chỉ mong mỏi hoà bình đến với đất nước tôi.  Hy vọng của tôi cũng đơn giản như những lời yêu cầu của dân chúng Mỹ khi họ tụ tập đòi hỏi binh sĩ của họ rời khỏi Việt Nam ngay tức khắc.  Sống bên kia bờ Thái Bình Dương, họ chẳng biết gì về sự đau khổ của nhân dân Việt Nam khi phải gánh chịu cuộc chiến giữa Cộng Sản và Tư Bản.  Hàng ngàn lính Mỹ chết trong chiến tranh Việt Nam làm rúng động người Mỹ và cả Thế Giới.  Thế thì hàng triệu người Việt Nam đã chết trong cuộc chiến ấy thì thế nào đây?  Ý nghĩ ấy khiến tôi tức tối!  Những giọt nước mắt đột nhiên trào ra.

Chương 3. Một Tình Huống Bi Thảm

Tôi có hẹn với những cộng tác viên của tôi vào trưa ấy, do đó tôi phải đến nhà hàng Sing-Sing ở đường Phan Đình Phùng để gặp họ.  Lễ, người đã từng là Chủ Tịch Ban Đại Diện Sinh Viên Đại Học Khoa Học, một trong những cộng tác viên ấy hỏi tôi.
- “Anh có biết gì về việc rút lui của chúng ta khi VC chiếm Sài Gòn không?”
- “Không, chưa biết!”  Tôi lúng túng trả lời.
- “Tôi chuẩn bị đi ra ngoại quốc trong vài ngày tới; anh có đi với tôi không?”
- “Tôi nghĩ còn quá sớm để có quyết định như vậy.  Ngoài ra, tôi còn phải hỏi sếp trước đã.  Anh có tin tức gì cho tôi không?”  Tôi hỏi về công việc để tránh những câu hỏi của Lễ.
- “Nhóm Bừng Sống đang trỗi dậy ở trường sau một thời gian dài vắng bóng.”
- “Tôi đã biết điều ấy; còn Hoan và Thắng thì thế nào?”
Nhóm “Bừng Sống” là một tổ chức nằm vùng của VC đã được thành lập ở Đại Học Khoa Học từ năm 1965; Hoan và Thắng là hai lãnh tụ của nhóm ấy.  Khi tôi thành công trong việc tái chiếm Ban Đại Diện Sinh Viên Đại Học Khoa Học từ nhóm này thì nhóm Bừng Sống biến mất.  Hoan và Thắng trốn vào mật khu của VC.  Chúng tôi bắt được Giàu, trưởng nhóm Bừng Sống.
- “Chúng tôi chưa thấy Hoan và Thắng xuất hiện.”  Lễ đáp lời tôi.
- “Tôi phải đi gặp sếp cái đã.  Hẹn các anh ngày mai lúc 10 giờ; chúng ta sẽ bàn về việc tương lai khi tôi biết được ít nhiều.”



Đó là lần cuối cùng tôi gặp Lễ vì anh ta không đến gặp lại tôi vào ngày 20 tháng tư như đã hẹn trước.  Tôi đoán anh ta đã rời bỏ đất nước.
Tôi đến nhà an toàn ở đường Phan Thanh Giản.  Dù đã 2 giờ trưa, hầu hết nhân viên đều ở đó để chờ đợi sếp Long.  Chúng tôi đều mong mỏi biết rỏ mọi điều đang diễn ra trong nước và kế hoạch của Cơ Quan.  Đẹp, thư ký của sếp bảo rằng Long đang có cuộc họp trong Dinh.  Tôi nghĩ có lẽ ông ấy đang gặp Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, nhưng không biết hỏi ai để xác minh điều ấy.  Sau khi bị một máy bay F-5 do Nguyễn Thành Trung, trung uý thuộc Không Lực Việt Nam Cộng Hoà lái, thả bom vào dinh tuần trước, ông Thiệu đang ẩn mình trong dinh.
Sếp tôi, Ông Long, mới 35 tuổi, còn quá trẻ khi được giữ chức vụ.  Ông ta hơi mập và tóc xoắn nên mọi người trong cơ quan thường gọi là Long Quắn để phân biệt với một vài “Long” khác.  Vì thường chơi Tennis vào buổi trưa nên da ông rám nắng; ông ta đi khá nhanh mặc dù đôi chân hơi ngắn.  Tôi nghe nói ông ta có họ hàng xa với Bà Thiệu, đệ nhất phu nhân.  Ông ta cũng ở tại Mỹ Tho, một tỉnh của miền Nam, gần nhà của gia đình Bà Thiệu.  Tôi không biết điều đó thật không, nhưng tôi nghĩ Long rất có tài trong nhiệm vụ của ông ấy.  Ông ta làm việc rất tận tụy nữa; nhiều người thì cho rằng vì ông ấy độc thân và lại có học vấn khá.  Đó là điều rất hiếm trong một cơ quan đang điều hành hầu hết bởi những sĩ quan quân đội.  Long đã tốt nghiệp Đại Học Luật Khoa và Trường Quốc Gia Hành Chánh.
Trong công tác hàng ngày, chúng tôi thường làm việc không có giới hạn giờ giấc.  Đôi khi chúng tôi làm đến 2, 3 giờ khuya, ăn vài món gì đó rồi lại làm việc tiếp.  Lúc khác chúng tôi lại ngủ cả ngày để lấy lại sức lực.  Suốt thời gian làm ở Cơ Quan, tôi chưa hề nghỉ phép thường niên vì không có thời giờ.  Tình trạng chính trị của Sài Gòn quá rối ren.  Sinh viên của Viện Đại Học Sài Gòn và Viện Đại Học Vạn Hạnh (của Phật Giáo) biểu tình hầu như hàng ngày để đòi hoà bình và chống lại chính quyền.  Hầu hết những cuộc biểu tình này đều bị giật dây bởi VC hay bởi những đảng phải chống lại chính phủ.  Trung tâm của nó phát suất từ chùa Ấn Quang.  Tôi không biết nhiều về mục đích của các đảng phái đối lập, nhưng tôi nghĩ rằng trong một quốc gia đang có chiến tranh, mọi sự gây xáo trộn đều là giúp đỡ cho kẻ thù.
Long về đến nhà an toàn vào khoảng 3 giờ chiều, ông ta trông mệt mỏi và chậm chạp, không còn cái vẻ nhanh nhẹn như mọi ngày.  Chúng tôi chờ đợi một tin xấu!  Ném cặp lên bàn, ông ta bắt đầu bằng một giọng nói thấp.
“Hôm nay tôi có đi họp; họ không đề cập gì về hiện tình đất nước.  Họ chỉ bảo rằng chúng ta phải xếp đặt mọi việc tuỳ theo những gì mà chúng ta thấy cần.  Mỹ đã bỏ rơi chúng ta, do đó chúng ta phải chiến đấu bằng chính sức lực của chúng ta.  Chúng ta sẽ gặp lại vào ngày mai trong Cơ Quan để làm những việc phải làm.”
Với những lời nói mập mờ ấy, chúng tôi biết rằng đất nước đang gặp khó khăn.  Chúng ta chỉ là những quân cờ trên bàn cờ của những cường quốc.  Họ đến đây với danh nghĩa của Hoà Bình; họ rời bỏ chúng ta cũng với danh nghĩa của Hoà Bình.  Chúng ta phải chiến đấu một mình với Cộng Sản, không chỉ với Cộng Sản Việt Nam mà với Cộng Sản trên toàn địa cầu!  Mỹ và Đồng Minh đã chấm dứt viện trợ có nghĩa là chúng ta phải tự gánh lấy gánh nặng của cuộc chiến.  Chúng ta không sợ sự hy sinh xương máu mà chúng ta rất sợ sự phản bội.
Tôi gặp Tuân và Banh, những người bạn thân của tôi trong Cơ Quan trước cửa nhà an toàn.  Banh cho biết Thuận và Giang đã đi rồi!  Banh đã từng là Chủ Tịch Sinh Viên Luật Khoa năm 1973.  Thuận và Tuân đã từng làm việc chung với tôi khi chúng tôi mới vào làm ở Cơ Quan.  Chúng tôi thường thu lượm tin tức của Tổng Hội Sinh Viên Sài Gòn và của các nhóm chống chính quyền thuộc cái gọi là “Thành Phần Thứ Ba” vào những năm 1969-1970 trước khi làm việc cho Ban A17.  (Ban chúng tôi có mật danh là A17 vì hiện lúc ấy có 17 phân khoa thuộc viện đại học Sài Gòn).  Giang là người làm chung với tôi trong công tác; anh ta cưới một cô vợ giàu có và có lẽ gia đình họ đã tìm được cách vượt biên khi họ nghe được những tin tức có hại cho tài sản của họ.  Tôi nghĩ có lẽ Thuận đã ra đi với gia đình anh của anh ta vì họ làm việc trong sân bay Tân Sân Nhất.  Chúng tôi cũng thông cảm cho họ về việc rời bỏ này; họ phải lo đến cuộc đời họ và gia đình họ trước tiên.
- “Chúng tôi chưa tính gì hết.  Chúng tôi nghĩ phải chờ đợi kế hoạch chung của Cơ Quan vì chúng tôi không có phương tiện riêng.  Còn anh thì thế nào?”
Banh cười nói dường như muốn che dấu những lo lắng của mình.
- “Tôi thì nghĩ chúng ta nhất định sẽ có kế hoạch chung vào ngày mai.”
Tôi cố giữ bình tĩnh.  Tôi không thể biết làm gì trong lúc ấy.  Leo lên một chiếc tàu nào đó trong bến tàu Sài Gòn đối diện với trụ sở trung ương của chúng tôi hoặc đi vào phi trường để lên một chiếc phi cơ nào đó đến một quốc gia khác, điều này tôi có thể làm được cho một mình tôi, nhưng còn vợ tôi với đứa nhỏ còn trong bụng kia thì làm thế nào đây; cô ta đang có mang tám tháng.  Điều tôi chờ đợi là một kế hoạch chung của cơ quan để di tản trong vòng trật tự, điều này sẽ an toàn hơn cho vợ tôi.
Chúng tôi cưới nhau vào năm 1972 sau gần ba năm quen biết.  Chúng tôi gặp nhau vào tháng 11 năm 1969; ngày đầu tiên tôi vào nhận việc ở Cơ Quan và cũng là ngày sinh nhật thứ 20 của vợ tôi.  Chị vợ tôi và anh rể cô ta cũng làm trong Cơ Quan.  Khi gặp cô ấy ở phòng nhận việc, tôi rất kinh ngạc vì cô ấy trông quá trẻ để làm việc cho một cơ quan tình báo!  Cô ta mới vừa tốt nghiệp trung học.
Sau gần ba năm chung sống, vợ tôi có mang và cũng rất hạnh phúc với đứa con trong bụng.  Thật ra đó là lần thứ hai cô ấy có mang; lần đầu đã bị sẩy vào tháng thứ hai.  Vợ tôi rất khổ sở khi một bác sĩ báo cho biết cô ấy không thể có con được vì một chứng bệnh nan y.  Tôi đã phải đưa vợ tôi đi đến đủ loại thầy thuốc, kể cả những lang băm.  Một bà thầy thuốc đông y bảo rằng bà ta có thể cho thuốc để vợ tôi có được một đứa con duy nhất mà thôi, và đó là đứa mà cô ấy đang mang trong bụng.
Cuộc sống chúng tôi trong thời gian này rất bình an.  Cô ta làm trong phòng tuyển mộ ở trụ sở trung ương; tôi vẫn thường đưa vợ tôi đến nơi làm việc mỗi bữa sáng và rước về mỗi bữa chiều.  Tôi ít khi vào Cơ Quan vì tôi làm cho một ban công tác ngoại vi.  Lương bổng chúng tôi không đủ xài nên tôi phải dạy thêm môn hoá học cho vài trường trung học tư thục ở Sài Gòn; đó là nguồn thu nhập chính của chúng tôi và cũng là ngụy thức của tôi.
Nếu cuộc đời chúng tôi trôi qua một cách êm đềm như thế, tôi đã không phải viết những trang hồi ký này!  Những biến động bất ngờ đã xãy đến làm đảo lộn hết mọi việc và mọi người dân trong đất nước tôi.  Hàng triệu người Việt Nam phải rời bỏ quê hương lưu vong trên toàn thế giới.  Hàng trăm ngàn nhân viên chính quyền và quân đội Việt Nam Cộng Hoà đã bị giam trong những cái gọi là “trại Cải Tạo” của Cộng Sản từ Bắc chí Nam và một số đã chết trong ấy.  Việt Nam trở thành một quốc gia nghèo nhất trên thế giới.  Đó có phải do lỗi của chúng tôi hay không?  Tôi không muốn đổ lỗi cho bất cứ ai khác, nhưng chúng tôi làm được gì trong hoàn cảnh ấy?  Chúng tôi không thể giải quyết được gì ngay cả hoàn cảnh cá nhân nữa.  Làm sao chúng tôi có thể tự chống lại được với Cộng Sản trên toàn thế giới trong khi chúng tôi bị trói tay bởi sự bỏ rơi của một cường quốc và các Đồng Minh?
Tôi không phải là một lãnh tụ của Việt Nam Cộng Hoà.  Tôi không biết gì về những chiến lược của chánh phủ Việt Nam, nhưng tôi nghĩ cái gọi là “chiến lược” của những quốc gia nhỏ cũng chỉ là “chiến thuật” của những cường quốc mà thôi!  Chúng tôi có thể chống lại VC trong những ngày tháng ấy và sẽ chết cho tổ quốc chúng tôi.  Tôi không chối bỏ điều ấy, nhưng làm sao chúng tôi làm được việc ấy một khi họ buộc chúng tôi phải từ bỏ sức mạnh của chúng tôi.
Tôi nghe rất nhiều lời phê bình đổ lỗi cho Chính Quyền nhất là các nhà lãnh đạo của Việt Nam Cộng Hoà về việc đánh mất Nam Việt Nam.  Tôi không biết điều đó đúng không, nhưng tôi nghĩ chúng ta cần phải chấp nhận cái lỗi chung của chúng ta đừng đổ cho vài người, ngay cả những cấp lãnh đạo.  Tôi không bào chữa cho họ hay cho chúng ta.  Tôi chỉ muốn nói để hiểu sự thật về những gì xảy ra trong đầu óc chúng ta trong những tháng ngày ấy.  Chúng ta lẫn lộn giữa sự an toàn cho chính chúng ta và sự an nguy của đất nước, giữa sự ở lại hay ra đi.  Tôi nghĩ những kẻ đã rời bỏ Việt Nam trong lúc ấy chưa hẳn là hèn nhát, những người đã ở lại chưa chắc đã là anh hùng.  Mỗi người có hoàn cảnh và cơ hội khác nhau, và tôi đang cố nhớ lại hoàn cảnh và cơ hội của chính bản thân tôi trong thời gian ấy để tìm hiểu tại sao tôi lại ở lại!
Tôi đến đón vợ tôi tại văn phòng của cô ta ở Số 3 Bến Bạch Đằng, đối diện với Bến Tàu Sài Gòn.  Quang cảnh bến tàu rất bình thường; những chiếc tàu chiến của Hải Quân Việt Nam vẫn đậu nối đuôi nhau dưới bến.  Vài thuỷ thủ và sĩ quan Hải Quân đang đi bộ trên vỉa hè gần Bộ Tư Lệnh Hải Quân.  Tư Dinh của Thủ Tướng nằm im lặng dưới bóng cây đa.  Vài người lính gác đứng nghiêm phía trước dinh.  Con đường Bạch Đằng từ Nguyễn Huệ đến Thống Nhất là khu vực quân sự; chỉ những người làm bên trong ấy mới được vào.  Tôi cố tìm xem có điều gì bất thường hay không, nhưng chẳng thấy gì cả!  Tôi tự hỏi tại sao mọi việc trông quá bình thường trong một hoàn cảnh lộn xộn như vậy của đất nước.  Tôi hỏi vợ tôi sau khi cô ấy ngồi phía sau xe gắn máy:
- “Em có nghe về kế hoạch của Cơ Quan mình không?”
- “Không!  Việc gì vậy anh?  Em nghe có người nói rằng sếp chúng ta sẽ rời cơ quan và ông Phụ Tá Lộc sẽ thay thế.  Đó chỉ là tin đồn vì em thấy ông Bình vào Phủ sáng nay.”
- “Anh chưa biết điều gì thật sự xảy ra, nhưng anh nghĩ có lẽ có những hoàn cảnh xấu có thể đưa đến sự mất nước.”
Vợ tôi chẳng quan tâm gì đến vấn đề chính trị.  Cô ấy chẳng để ý điều gì ngoại trừ cuộc sống hàng ngày của chúng tôi.  Tôi vẫn nhớ lúc Đảng Dân Chủ của Tổng Thống Thiệu ra mắt dân chúng, cờ của đảng ấy có hình dạng đối nghịch với cờ của Bắc Việt với nền vàng ngôi sao đỏ treo khắp nơi; tôi đùa với vợ tôi rằng đó là cờ của VC.  Sợ hải, cô ta bảo tôi lái xe qua đường khác để tránh!  Tôi không biết cô ta sẽ bảo tôi làm gì đây một khi lời nói đùa của tôi biến thành sự thật, một khi cây cờ đỏ sao vàng treo khắp nơi trong Sài Gòn!  Tôi mỉm cười với ý nghĩ ấy để dấu đi sự lo lắng trong lòng.
Chúng tôi đến nhà ba mẹ vợ tôi để tìm hiểu xem họ có biết gì không.  Chị vợ tôi làm trong Ban Nghiên Cứu nói với tôi rằng chị ấy nhìn thấy những tin tức xấu trên tờ trình cho Tổng Thống mà chị ấy đánh máy hàng ngày.  Tình trạng tồi tệ của đất nước chúng ta đã diễn ra, đặc biệt là những tỉnh miền Trung, sau khi Tổng Thống ra lệnh rút các đơn vị quân đội khỏi Buôn Mê Thuột qua đường liên tỉnh lộ số 7.  Hàng ngàn dân chúng đã bị chết trên con đường mà báo chí gọi là Đại Lộ Kinh Hoàng này.  Tôi đã đọc được tin này trên báo chí, nhưng tôi không biết được điều gì sẽ xảy ra sau đó, nhất là kế hoạch cho đất nước theo như Hoà Ước Paris.  Tôi muốn có một lời giải thích rõ ràng của những nhà lãnh đạo, và đang chờ đợi điều ấy.  Làm việc cho một cơ quan trưc thuộc Phủ Tổng Thống, tôi nghĩ phải có một kế hoạch cho chúng tôi một khi có điều gì đó xảy ra.
Linh, chồng của chị vợ tôi nói:
- “Tôi thì không nghĩ VC có thể vào được Sài Gòn.”
- “Sao anh biết chắc vậy?”  Tôi cắt lời anh ta.
Linh làm trong Ban Huấn Luyện của Cơ Quan.  Anh ta trả lời tôi một cách lúng túng.  “Tôi nghe nói chúng ta nhường một phần đất của chúng ta từ vĩ tuyến 12 đến vĩ tuyến 17 cho Mặt Trận Giải Phóng và tạo thành một tuyến phòng thủ vững chắc từ Tuy Hoà để sẵn sàng thương thuyết với VC và Bắc Việt theo mật ước của Hoà Ước Paris.”
- “Anh nghĩ chúng ta có đủ sức để đánh lại VC mà không cần viện trợ của Mỹ hay không?”
- “Tôi nghĩ có thể được.  Trong Tết Mậu Thân, chúng ta chưa có những vũ khí tối tân như M16 mà chúng ta vẫn thắng được VC với AK.  Giờ đây chúng ta có nhiều thứ.”
- “Sau trận chiến Nam Lào, quân đội chúng ta yếu hơn; tôi không biết chúng ta có thể chịu đựng được một cuộc tổng tấn công như Tết Mậu Thân hay không?”
- “Chiến trường ở Đường 9 Nam Lào là một cuộc thí quân!  VC biết hết mọi chiến lược của chúng ta.  Tôi nghĩ có lẽ đó là kế hoạch của Mỹ, họ không muốn quân đội ta quá mạnh đến nỗi họ khó có thể điều khiển.”
- “Mọi cái chúng ta nghĩ chỉ là điều chúng ta suy đoán.  Chúng ta không có được những lời giải thích rõ ràng của những nhà  lảnh đạo của chúng ta.  Giờ đây tôi nghĩ có lẽ chúng ta phải quyết định những gì phải làm trong tình trạng nguy kịch này.  Chúng ta nên tự đặt kế hoạch cho chính mình chứ không nên chờ đợi từ những nhà lãnh đạo của chúng ta nữa.”
- “Làm sao chúng ta có thể tự mình làm được gì?”  Linh đột nhiên hỏi.
- “Đó là lý do mà chúng tôi đến đây.  Vợ tôi và tôi không thể làm gì được một mình, nhưng tôi nghĩ tất cả chúng ta hợp lại thì có thể có được một ý kiến hay!”
Chúng tôi im lặng nhìn nhau.  Mỗi người đều có riêng một mối lo.  Tôi nghĩ chẳng ai có thể biết phải làm gì trong lúc ấy nên tôi phá tan bầu không khí im lặng nặng nề ấy.
- “Chúng ta sẽ suy nghĩ đến những điều này và sẽ bàn lại sau vậy.”
Trên đường về nhà, tôi đi ngang qua chợ Bến Thành, một trung tâm thương mại của Sài Gòn và của miền Nam Việt Nam.  Xe cộ đầy đường.  Hàng hoá tràn ngập trên vỉa hè.  Khách hàng chen chúc trong những cửa hàng.  Vài cặp tình nhân vai sánh vai lang thang trên vỉa hè Lê Lợi.  Mọi việc diễn ra giống như mọi ngày.  Tôi không thể nhận ra được không khí chiến tranh trong một bối cảnh như vậy.  Quán cà phê “La Pagode” trên đường Lê Lai nơi tôi thường ngồi uống cà phê và nghe nhạc vẫn đang mở cửa; tiếng nhạc quen thuộc êm đềm vọng ra khi tôi đi ngang qua.  Tiếng chuông của nhà thờ Đức Bà vang lên một giọng ngân làm nhẹ nhàng tâm hồn tôi.  Là một Phật Tử, nhưng tôi lại thích nghe tiếng chuông ấy vì nó khiến tôi cảm thấy nhẹ nhàng bởi giọng điệu trong sáng của nó.  Trụ sở vĩ đại của Toà đại sứ Mỹ nằm một cách kiêu hãnh đối diện với trụ sở của Toà đại sứ Anh Quốc nằm im lìm trên đại lộ Thống Nhất.  Vài quân nhân thuỷ quân lục chiến Mỹ trong chiến phục với M16 trên tay đứng gác ở cổng Toà Đại Sứ và trên hai vọng gác ở góc tòa nhà.
Chúng tôi về đến cư xá Thanh Đa nơi chúng tôi đang ở.  Gia đình chị vợ tôi ở tầng trên, cũng nơi ấy; hai người đã về trước chúng tôi.  Chúng tôi vừa dời về đây vài tuần nên chỉ có một ít đồ đạc trong nhà: một bộ đồ bằng mây trong phòng khách, tấm nệm trải trên sàn trong phòng ngủ, vài đồ đạc để nấu nướng trong nhà bếp.  Phòng ăn vẫn trống trơn.  Tôi nhìn ra cửa sổ.  Dòng sông Thanh Đa lấp lánh trong ánh chiều.  Vài chiếc ca-nô rẽ sóng phía xa xa.  Hàng dừa bên kia sông im lìm phản chiếu bóng cây trên mặt sông.  Màu tím nhạt của bầu trời kết hợp với màu xanh đậm của cây cối tạo nên một bức tranh hài hoà.  Tôi thích được thưởng thức một cuộc sống như thế, nhưng điều gì đây sẽ xảy ra cho tôi trong một bối cảnh đất nước như thế này!  Sự lo âu đột nhiên xâm chiếm lấy hồn tôi.
Những tiếng gõ cửa làm gián đoạn dòng suy nghĩ của tôi.  Linh ghé qua để trò chuyện như thường lệ, nhưng tôi nhìn ra được dáng vẻ buồn bả của anh!  Linh và Lan, chị vợ tôi, có hai đứa con trai.  Tôi không nhớ họ lấy nhau vào thời gian nào, nhưng con của hai người một đứa lên ba còn một đứa mới vài tháng tuổi.  Linh di cư vào Nam năm 1954 và hiện đang làm việc trong Cơ Quan.  Họ gặp nhau trong ấy.  Cao khoảng một thước bảy, với khuôn mặt dài và luôn tươi cười, Linh dể gây cảm tình với mọi người.  Theo Linh hôm nay còn có Hào, bạn cùng học với tôi ở Đại Học Khoa Học, làm trong Cơ Quan và hiện đang biệt phái sang Cảnh Sát.  Hào vừa cưới vợ cách đây không lâu; tôi nghĩ anh ta cũng đang lo lắng cho số phận mình.  Tôi hỏi Hào có biết gì không, nhưng anh ta chỉ nhún vai mà không trả lời gì hết.
Tôi bắt đầu cuộc nói chuyện sau khi vừa ngồi vào chổ ở ngoài ban công.
- “Hai anh có ai biết tin tức gì liên quan đến diễn tiến cuộc chiến đang diễn ra ở Xuân Lộc không?”
- “Chúng ta đang đưa hết quân vào chiến trường ấy.  Tôi hy vọng chúng ta có thể chặn đứng được VC ở đó để chờ viện trợ của Mỹ.”  Hào xác định.
- “Tôi thì không tin Mỹ sẽ tiếp tục viện trợ nữa!  Tổng thống Mỹ Gerald Ford đã thất bại trong việc yêu cầu Quốc Hội Mỹ viện trợ 722 triệu đô la.  Có lẽ bây giờ chúng ta phải tự lực mà thôi.”  Linh nói.
- “Các anh nghĩ Tổng thống Pháp, Valery Giscard d”Estaing, có thể giúp chúng ta được gì trong việc tìm kiếm một giải pháp cho Việt Nam không?”  Tôi hỏi một cách vô hy vọng.
- “Đó là cố gắng của Pháp để giúp Việt Nam, tôi nghĩ đó cũng là một thoáng hy vọng cho chúng ta và cũng là ước muốn của đám “thành phần thứ ba” nữa.”  Hào lại nhún vai.
Tôi nghĩ tất cả mọi người trong chúng ta đều lo lắng cho số phận của đất nước và của chính bản thân mình trong lúc ấy.  Chúng tôi đều làm trong cơ quan tình báo, thế mà lại chẳng biết gì về kế hoạch của quốc gia.  Tất cả những gì chúng tôi biết được phần lớn là từ báo chí ngoại quốc.
Trong những ngày này, những tin tức từ những tạp chí như Times hay Newsweek hay từ những đài phát thanh như Voice of America và BBC dường như đều có ý định đạp đổ đất nước chúng tôi.  Tân “nội các chiến tranh” của Tổng Thống và Tân Thủ Tướng dân sự Nguyễn Bá Cẩn không thể nắm vững được chính quyền.  Dân chúng hoang mang về những tin đồn tung ra khắp nơi.  Trừ vài cá nhân giàu có có thể bỏ ra tám ngàn đô la để mua một tấm giấy thông hành, mọi người khác đều không thể có được điều kiện để trốn ra khỏi nước một khi VC tiến vào, ngay cả những người làm việc cho Mỹ và cho Chính Phủ và Quân Đội Việt Nam Cộng Hoà.  Mọi người đều đang mong chờ Mỹ định đoạt dùm số phận của họ theo như Tổng Thống Mỹ đang yêu cầu Quốc Hội Mỹ chuẩn chi ngân khoản tài trợ để giải cứu hai trăm ngàn người dân miền Nam đã cộng tác với Mỹ trong cuộc chiến.  Thật là một điều bi thảm khi phải đặt cả cuộc đời mình trong tay của người khác!
Hội đàm Paris là chiến thắng cho cả VC lẫn Mỹ.  Sự sụp đổ của Phnom-Penh là sự bắt đầu.  Điều gì kế tiếp sẽ xảy ra cho đất nước chúng tôi?  Một chiếc phi cơ vận tải C5A bị rơi một cách kinh hoàng vào tuần qua làm chết nhiều trẻ em mồ côi vẫn là một mối nghi ngờ về việc Mỹ đang có ý định bỏ rơi Việt Nam.  Một khi số trẻ em mồ côi hầu hết là lai Mỹ đã ra đi, chúng tôi không biết số phận của chúng tôi sẽ ra sao tiếp theo đó.  Có thể nào nhờ đó mà Mỹ có thể tiếp cứu chúng tôi dễ dàng hơn khi điều tồi tệ nhất xảy ra, hay đó chính là điều duy nhất mà người Mỹ làm được ở Việt Nam trước khi họ phủi tay.  Với những sự việc như thế, tại sao chúng ta không tự  tìm cách cứu lấy mình.  Tôi hỏi Linh và Hào về khả năng có thể di tản khi cần thiết.
- “Chúng ta không có tiền để mua thông hành, do đó chỉ còn cách chờ kế hoạch chung của Phủ.”  Linh nói một cách buồn bã.
- “Tôi thì hy vọng rằng Cơ Quan của chúng ta đã có sẵn sàng một kế hoạch.  Tôi không thể nào nghĩ được một cơ quan tình báo mà lại không có sẵn một kế hoạch để lo cho nhân viên trong tình huống nguy kịch.”  Hào nói một cách không chắc chắn.
- “Ngoài ra, Cơ Quan chúng ta nằm kế bên bến tàu; tôi nghĩ trong tình hình khẩn cấp chúng ta có thể leo lên tàu để ra đi.  Điều đáng lo cho chúng ta là gia đình chúng ta.”  Tôi nói mà buồn rầu nghĩ đến vợ tôi.
Chúng tôi đều biết rằng trong tình trạng khẩn cấp thì chính gia đình chúng tôi là cái mà chúng tôi lo âu nhiều nhất, và những gì chúng tôi đang bàn tính chính là về sự an toàn cho gia đình chúng tôi.  Tôi vẫn thường nghe một thành ngữ rằng: “nước mất, nhà tan”, và sự tuyên truyền của Chính Phủ Việt Nam Cộng Hoà về sự “Tắm Máu” khi VC tiến vào luôn luôn là một ám ảnh trong tâm tư tôi.  Tôi không sợ chết nếu nó có thể đem lại sự an toàn cho gia đình tôi, nhưng tôi chỉ lo sợ cho sự đau khổ mà gia đình tôi phải chịu khi việc tồi tệ diễn ra.
Một khoảng khắc im lặng bao trùm sau lời tôi nói.  Tôi không biết làm thế nào để phá tan sự im lặng ấy, do đó tôi kể lại những điều mà tôi nghe sếp tôi nói vào sáng hôm ấy.  Cuối cùng tôi đi đến một kết luận rất vô nghĩa.
- “ Có lẽ chúng ta sẽ biết được ít nhiều vào sáng ngày mai trong Cơ Quan.”
Hào từ giã.  Linh bảo tôi đi với anh ấy sang nhà chị anh để hỏi coi có chương trình nào không.  Anh rể của Linh là một giám đốc trong bộ Dân Vận và Chiêu Hồi.  Ông ta không có ở nhà, và chúng tôi hẹn gặp lại hôm sau.
Chúng tôi về nhà với tâm tư rất bối rối.  Linh bảo tôi gói ghém những thứ cần thiết để đề phòng tình huống khẩn cấp.  Chúng tôi chỉ có một cái túi xách tay nhỏ từ những ngày đi trăng mật, do đó chúng tôi lên mượn Linh một cái ba-lô cho dể mang và còn phải phụ giúp vợ tôi vì cô ấy quá nặng nề với cái bầu.  Tôi bỏ vào túi xách vài bộ quần áo cho chúng tôi, và một ít đồ dùng cho đứa trẻ sắp ra đời nữa.  Tôi nói đùa với vợ tôi rằng nếu con chúng tôi sanh ra trên đường đi trốn thì phải đặt tên nó là “Di Tản” để nhớ lại chuyện này.  Chúng tôi cười để xoa đi bao nỗi lo sợ.



Chương 4. Phủ Trung Ương Tình Báo Chuẩn Bị Di Tản

Tôi đến Trụ Sở Trung Ương sớm hơn mọi ngày.  Sau khi đưa vợ tôi vào văn phòng, tôi đi thẳng đến khu nhà của Ban A17 chúng tôi thay vì đi đến trường để dạy học mặc dù hôm ấy tôi có giờ dạy.  Tôi không thể nào xuất hiện trước mặt học trò của tôi được.  Tối hôm qua, tôi đã mất ngủ mặc dù đã uống thuốc ngủ; quá nhiều vấn đề khiến tôi bị nhức đầu.  Tôi phải nói vợ tôi gọi báo bệnh dùm.
Khu nhà Ban A17 của chúng tôi ồn ào chứ không im lặng như thường lệ.  Tôi nghĩ rằng giờ ấy còn sớm thế mà mọi người đều có mặt đông đủ.  Đẹp, thư ký của sếp tôi đang đánh máy cái gì đó.  Tuân bảo tôi cô ta đang làm danh sách và địa chỉ của nhân viên đề phòng trường hợp khẩn cấp.  Ở nước tôi vào lúc ấy, người dân chưa dùng điện thoại ngoại trừ những gia đình giàu có hoặc các cơ sở thương mại.  Sự liên lạc với nhau thường được thực hiện bởi những liên lạc viên; anh ta lái xe gắn máy đi tìm những người cần thiết để báo lại những điều cần phải làm.  Đôi khi chúng tôi lại không ở tại nhà mình, do đó chúng tôi cần có một địa chỉ chính xác trong những trường hợp như thế này.  Tôi ghi lại địa chỉ của mẹ tôi thay vì địa chỉ của tôi vì tôi không muốn ở một mình trong nhà tôi trong trường hợp này.
- “Có gì xảy ra trong cơ quan chưa?”  Tôi hỏi Tuân.
- “Chưa có gì đặc biệt!  Tôi nghĩ  chắc phải đợi sếp vào thì mới biết.  Không biết các nơi khác trong Phủ có làm danh sách không, nhưng theo tôi thì chắc phải có điều gì đó quan trọng.”
- “Ai sẽ là người liên lạc?  Tôi nghĩ chắc là Hiệp và Điền chứ gì?
- “Tôi cũng nghĩ thế, nhưng theo tôi thì chúng ta nên vào đây thường hơn để tự lo liệu lấy mình.  Tại sao anh không điện thoại hỏi bà xã ở bên đó xem có gì không?”  Tuân đột nhiên hỏi tôi.
- “Tôi cũng định sẽ điện thoại hỏi vợ tôi, Lan và Linh nữa để chúng ta có thể biết được vài điều đang diễn ra trong cơ quan.”
Với hàm râu chưa cạo, Tuân trông lớn hơn số tuổi ba mươi hai.  Chúng tôi thường gọi đùa là tên Tây lai vì hàm râu quai nón và cái sống mũi cao của Tuân.  Trong những ngày đầu tiên mới vào làm trong cơ quan, Tuân và tôi thường làm chung với nhau trong “Đội Công Tác Sinh Viên”.  Chúng tôi gia nhập các cuộc biểu tình của sinh viên để thu nhặt tin tức.  Chúng tôi cùng nhập ngũ chung một ngày, ở chung trong một trung tâm huấn luyện.  Sau khi trở về làm cho Cơ Quan, tôi phụ trách công tác ở Đại Học Khoa Học còn Tuân ở Đại Học Văn Khoa, nhưng chúng tôi vẫn thường hỗ trợ nhau.  Vợ của Tuân cũng là bạn học với vợ tôi; chúng tôi thỉnh thoảng vẫn đi chơi chung với nhau do đó hai chúng tôi là những người bạn thân.
- “Tôi nghĩ chúng ta đang đứng ở bên bờ vực.”  Tuân cắt ngang.  “Hai vợ chồng tôi chắc sẽ tính chuyện ra đi càng sớm càng tốt!”
- “Hy vọng hai người sẽ làm được việc ấy.  Hoàn cảnh hai người tương đối dễ dàng hơn tôi; vợ tôi quá nặng nề với cái bầu, tôi không thể làm gì khác hơn là chờ đợi chương trình của cơ quan.  Hơn nữa, tôi nghĩ không lẽ một cơ quan tình báo mà lại không có một chương trình lo cho nhân viên trong tình trạng nguy kịch hay sao.”
- “Tôi hy vọng thế, nhưng ít ra chúng ta cũng nên nghĩ đến điều ấy.  Tôi thật không biết tình trạng đất nước ta quá tồi tệ đến thế sao.”  Tuân lo lắng nói.
Mọi nhân viên trong ban chúng tôi đang bàn tán về tình trạng xấu của đất nước, nhưng thật ra chúng tôi không rõ nó tồi tệ đến mức nào.  Chúng tôi không thể tin được một ngày chúng tôi có thể mất nước mà chỉ nghĩ đến một trận chiến lớn với VC khi chúng tiến vào Sài Gòn mà thôi.  Có tin đồn là chúng tôi sẽ rút về vùng 4 ở đồng bằng sông Cửu long để chống lại VC.  Nhưng cuộc chiến ở Xuân Lộc vẫn đang tiếp diễn.  Chúng tôi làm trong một cơ quan chuyên lo về những vấn đề chính trị, nên cũng không biết nhiều về việc quân sự.  Đó chính là nhược điểm của chúng tôi.
Trong một quốc gia mà chiến tranh diễn ra quá lâu, các vấn đề chính trị, quân sự, và kinh tế đều bị lẫn lộn nhau.  Những nhà lãnh đạo quân sự trở thành lãnh đạo chính trị đã tạo thành sự lộn xộn cho quốc gia.  Đất nước không có được một nhà lãnh đạo lớn có thể kết hợp sức mạnh của toàn dân để chống lại kẻ thù.  Phó thủ tướng Trần Văn Hương, người đại diện cho miền Nam nhưng lại không có thực quyền, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu là một trung tướng nhưng lại không đại diện được cho quân đội.  Mỗi một tướng lãnh là một ông vua trong vùng với quyền lực riêng của mình.  Sự chia rẽ trong hàng ngũ tướng lãnh càng lúc càng trầm trọng khiến binh lính trở nên nghi ngờ.  Thiếu Tướng Không quân Nguyễn Cao Kỳ, cựu Phó Tổng thống, và Đại Tướng Dương Văn Minh, kết hợp với nhóm Phật Giáo Ấn quang và với cái gọi là “Thành Phần thứ Ba” để chống lại Tổng Thống.  Họ đều muốn tổng thống phải từ chức.  Tôi không biết họ làm được gì cho đất nước một khi họ nắm quyền hành.  Một vài ngôi sao sáng trong bầu trời chính trị đã bị giết chết như Nguyễn Văn Bông, giám đốc trường Quốc Gia Hành chánh và cũng là chủ tịch đảng Cấp Tiến.
Tôi nghĩ phương cách hay nhất là sự đoàn kết toàn dân như một câu tục ngử của Việt Nam“Đoàn kết là sống, chia rẽ là chết”.  Tôi không đổ lỗi cho các nhà lãnh đạo về sự đánh mất đất nước, nhưng chính họ là những người đã nắm vận mệnh đất nước trong tay.  Có một câu nói của người xưa rằng “nhất tướng công thành vạn cốt khô”, tôi nghĩ thêm rằng “nhất tướng thất bại triệu cốt khô!
Tôi điện thoại hỏi vợ tôi ở phòng tuyển mộ và chị vợ tôi ở Ban Nghiên cứu; họ đều đã làm danh sách cho nhân viên.  Chúng tôi hiểu rằng đó là dấu hiệu xấu của đất nước.  Tuy nhiên chúng tôi không biết được xấu đến mức nào, và chúng ta phải làm gì để giải quyết.  Đi ra nước ngoài như nhiều người đã làm, chuẩn bị chống lại VC khi chúng tiến vào Sài Gòn, hay rút về đồng bằng sông Cữu Long như tin đồn?  Chúng tôi không biết thật sự phải làm gì.  Chỉ làm một danh sách thì không thể giải quyết được gì!  Chúng tôi muốn có một lời giải thích rỏ ràng, và chúng tôi đang chờ sếp vào.
Long đi nhanh vào phòng.  Chúng tôi nhìn nhau lo lắng.  Điều này bất thường vì ông ta không có thói quen như vậy.  Ông ta thường đi vào hội trường để trò chuyện với chúng tôi trước khi vào văn phòng riêng.  Chúng tôi đều mong những lời của ông ta.  Khoảng nửa giờ sau, ông ta đi ra với một dáng buồn bã.
“ Tôi rất lấy làm buồn mà báo tin rằng chúng ta đang phải trải qua một giai đoạn khó khăn và nguy hiểm.  Nhiều áp lực buộc Tổng Thống phải từ chức, và tôi không biết ông ấy có từ chức không.  Tôi cũng không biết ai sẽ thay Tổng Thống Thiệu nếu ông ấy từ chức.  Phó Tổng Thống chỉ là tạm thời mà thôi.  Thêm vào đó, tôi không biết đất nước sẽ ra sao trong tình trạng như thế này.  Chúng ta đang lập danh sách theo như lệnh của cấp trên, nhưng tôi không biết để làm gì.  Tôi chỉ mong chúng ta bình tĩnh trong mọi tình huống.  Chúng ta sẽ làm việc như thường lệ, và chúng ta cũng sẽ hợp sức nhau.”
Nhiều cái “tôi không biết” của ông Long khiến chúng tôi phân vân hơn lúc nào hết.  Chúng tôi không chờ đợi một ý kiến mơ hồ như vậy.  Trong tình trạng như thế, chúng tôi nghĩ một cấp chỉ huy cần nên trình bày rõ ràng sự thật cho nhân viên chứ không nên che lấp  bằng những lời lẽ mập mờ.  Chúng tôi không cần biết ai sẽ là Tổng Thống; điều chúng tôi cần muốn biết là tình trạng đất nước như thế nào và chúng tôi phải đối phó ra sao.  Tôi nghĩ ông Long cũng đã bị mơ hồ bởi vì ông ta là bà con với bà Thiệu; một khi ông Thiệu từ chức, ông Long cũng mất đi hậu thuẩn và cũng có thể mất đi chức vụ.  Có lẽ ông ta đã quá chú ý đến địa vị của mình nhiều hơn là vận mạng của đất nước!  Ông Long là một ứng viên sáng giá trong chức vụ Đặc Uỷ Trưởng mặc dù ông ta còn trẻ và không phải là một sĩ quan quân đội.  Ông ta đã thành công hầu hết trong mọi công tác mà ông ta nắm giữ, và ông ta cũng có học vấn hơn nhiều người lãnh đạo trong cơ quan.  Trong ban của chúng tôi, hầu hết nhân viên đều đã tốt nghiệp bậc Trung Học, và một số tốt nghiệp Đại Học.  Để điều hành một ban như thế, Long có nhiều thuận lợi hơn một sĩ quan quân đội mặc dù cơ quan đang được lãnh đạo bởi quân đội.
Long đã đi sau khi nói chuyện.  Tuân, Banh, và tôi đi ra quán cà phê La Pagode như thường lệ trước khi đi gặp các cộng tác viên.
- “Các bạn có nghĩ rằng ông Thiệu sẽ từ chức hay không?  Tôi bắt đầu.
- “Tôi nghĩ ông ta sẽ từ chức vì dân chúng có vẻ không ưa ông ấy sau vụ độc diễn trong kỳ bầu cử Tổng Thống vừa qua.  Tuy nhiên tôi không biết ai sẽ làm Tổng Thống trong lúc này.”  Banh nói nhanh, “tôi nghĩ có lẽ Tướng Dương Văn Minh và Tướng Nguyễn Cao Kỳ là sáng chói nhất.”
- “Tôi thấy Big Minh đã nắm vai trò lãnh đạo một lần rồi và đã không làm được gì cho đất nước.  Còn ông Kỳ là một Cao Bồi trong quân đội; làm thế nào ông ta có thể lãnh đạo đất nước trong tình huống như thế này?”  Tuân đưa ý kiến.
- “Tôi cũng đồng ý!  Đối với tôi thì sự thay ngựa giữa dòng không phải là một giải pháp hay trong lúc này.  Ông Thiệu thật ra không hoàn hảo trong vai trò của ông ấy đang nắm, nhưng nếu phải chọn giữa ba người này thì có lẽ tôi chọn ông ta.  Ngoài ra tôi không biết ai thích hợp hơn trong lúc này.”  Tôi góp ý.
- “Theo tôi thấy thì vài vị tướng lãnh và cái gọi là “Lực Lượng Thứ Ba” muốn thương thuyết với VC về hoà bình đất nước, nhưng làm sao chúng ta tin được Cộng Sản.”  Tuân nói.
- “Đúng vậy!  Người Mỹ đã không còn muốn cái mà họ gọi là “Chiến Tranh Việt Nam” nữa;  dân chúng Mỹ thì nghĩ rằng đây là cuộc nội chiến giữa Nam và Bắc Việt Nam.  Họ muốn chúng ta tự giải quyết cuộc chiến của chúng ta.  Họ cũng chẳng cần biết rằng đây là cuộc chiến tranh giữa Chủ nghĩa Cộng Sản và Chủ nghĩa Tư Bản mà chúng ta chính là nạn nhân.  Tôi nghĩ chính người Mỹ muốn ông Thiệu từ chức và giải quyết chiến cuộc qua thương thuyết, và đó là áp lực chính.”  Banh nói nhanh nhẩu như thường lệ.
Hàm râu càm mà không có ria mép khiến Banh trở nên trông buồn cười ở cái tuổi mới hai mươi sáu.  Banh là họ hàng bên ngoại với gia đình Đỗ Kiến ở Mỹ Tho;  Đỗ Kiến Nhiểu, đô trưởng Sài Gòn là cậu của anh ta.  Tôi cũng nghe nói rằng gia đình Đỗ Kiến là họ hàng với Bà Thiệu, đệ nhất phu nhân.  Một khi nhà lãnh đạo đặt họ hàng ông ta trong các chức vụ quan trọng điều đó có nghĩa là ông ta không tin tưởng cấp dưới.  Đó cũng là lý do để các lực lượng khác có cơ hội đối kháng.  Sự sụp đổ của nền Đệ nhất Cộng Hòa và cái chết của tổng thống Ngô Đình Diệm và các em của ông ta Ngô Đình Nhu, Ngô Đình Cẩn là một chứng minh rỏ ràng.  Các tăng lữ Phật Giáo đã nắm vai trò chính trong sự lật đổ nền Đệ Nhất Cộng Hòa, và giờ đây họ lại nắm phần quan trọng trong sự đối đầu với tổng thống Thiệu.  Lực Lượng thứ Ba thật ra cũng chẳng có thực lực ngoài hai tướng Kỳ và Big Minh mà cả hai đều có sự khác biệt nhau.  Vài người khác như bà luật gia Ngô Bá Thành, luật sư Trần Ngọc Liễng, giáo sư Châu Tâm Luân, ni sư Huỳnh Liên, vân vân chỉ dựa vào lực lượng Phật Giáo Ấn Quang; thật ra thì VC chính là phần tử chính len lỏi trong đó.  Nguồn nhân lực chính là lực lượng Sinh Viên thì đã bị nhóm sinh viên của chúng tôi bao vây từ năm 1972 sau khi chúng tôi thành công trong việc giành lại Tổng Hội Sinh Viên Sài Gòn từ tay Huỳnh Tấn Mẫm, một tên Cộng Sản.  VC không còn có thể lợi dụng Sinh Viên được nữa nên chúng thành lập vài nhóm như “Lực Lượng Thanh Niên Cứu Đói”, và “Nhóm Ký Giả ăn mày” để quấy động tình hình Thủ Đô.
Ngoại trừ vài lực lượng chống đối với Tổng Thống Thiệu, tình hình thủ đô vẫn lặng yên sau khi cuộc rút lui khỏi Buôn Mê Thuột và Đà Nẵng được loan báo.  Dân chúng cho rằng Nguyễn Văn Thiệu là chướng ngại cho hoà bình; nhiều áp lực từ mọi phía yêu cầu ông từ chức.  Cơ quan chúng tôi là một bộ phận trực thuộc phủ tổng thống, do đó sự thay đổi tổng thống cũng đồng nghĩa với sự thay đổi trong cơ quan.
- “Theo các anh thấy thì thay đổi tổng thống có thể giúp đất nước ta tiến đến hoà bình hay không?”  Tôi hỏi.
- “Tôi không nghĩ vậy!”  Tuân nói một cách buồn bã,  “đã nhiều lần chúng ta thay đổi cấp lãnh đạo nhưng càng khiến tình hình thêm rối ren mà thôi.”
- “Tôi cũng đồng ý!  Sau khi nền đệ nhất cộng hoà bị lật đổ, người Mỹ đưa quân vào khiến cuộc chiến càng lúc càng thêm gay gắt.  Đất nước ta đã nhiều phen thay đổi cấp lãnh đạo, nhưng không ai có khả năng giữ được tình hình yên ổn như lúc còn Ngô Đình Diệm.”  Banh nói thêm.
- “Tôi thì nghĩ các cấp lãnh đạo của chúng ta chỉ muốn tranh giành quyền lực chứ không nghĩ đến vận mạng của đất nước.”  Tuân nhận định.  “Tôi rất tiếc cho các vị lãnh đạo của chúng ta bởi vì chúng ta phải phục vụ cho những kẻ không biết nghĩ đến gì ngoài quyền lợi của chính họ.”
- “Chúng ta còn trẻ, và chúng ta muốn mang hoà bình lại cho đất nước.  Tôi nghĩ nếu VC không quá tôn sùng cái chủ nghĩa Cộng Sản của chúng thì tốt hơn chúng ta giao đất nước này cho họ để nhân dân có được hoà bình.”  Tôi nói một cách thành tâm.
- “Tôi cũng nghĩ thế!  Chúng ta đã quá mệt mỏi với cuộc chiến.  Hàng trăm năm qua chúng ta chưa có cơ hội để xây dựng đất nước.”  Banh nói; “Tôi hy vọng một ngày nào đó sẽ không còn chiến tranh để chúng ta có thể làm được những điều mà chúng ta muốn làm.”
Tôi đến nhà hàng Sing Sing trên đường Phan Đình Phùng để tiếp xúc với các cộng tác viên, nhưng không gặp Lễ như đã hẹn.  Nhàn, Nghĩa, Trung, Tâm, Vinh, Trí, và Lâm đều hy vọng biết được vài điều gì đó.  Tôi nhắc lại những điều tôi nghe được từ sếp và yêu cầu họ hãy làm những điều cần thiết để tự cứu lấy mình.  Họ là những cộng tác viên trẻ đã giúp tôi trong việc chiếm lại Ban Đại Diện Sinh Viên Đại Học Khoa Học trong những ngày đầu.  Nhàn, trưởng nhóm ấy bị cụt mất một chân.  Tôi không biết điều gì đã xảy ra cho hắn vì tôi không bao giờ hỏi lý do.  Hắn luôn luôn trông có vẻ tươi cười vui vẻ.  Những người này chỉ mới đang học năm đầu tiên ở Đại Học Khoa Học, nhưng lại làm việc rất thành công.  Trong một tình trạng như thế này, họ còn quá trẻ để tự định đoạt lấy tương lai mình, và điều mà họ có thể làm được có lẽ là chờ đợi kế hoạch chung của cơ quan!  Tôi hiểu họ đang chờ một lời giải thích rõ ràng chứ không phải những gì mà tôi vừa nói.  Tôi nói một cách lúng túng.
“Tôi biết tôi đã không có được những gì mà các anh mong đợi, và chính tôi cũng rất lo lắng như các anh.  Tình trạng của tôi có lẽ còn khó khăn hơn các anh.  Tôi rất tiếc.  Tôi nghĩ chúng ta đành phải tự giải quyết lấy vấn đề của chính chúng ta chứ không nên quá trông chờ vào Cơ Quan.  Tôi hy vọng các anh hiểu điều tôi nói.”
Từ hôm ấy, tôi ở lại nhà mẹ tôi vì tôi không muốn bị lỡ cơ hội mỗi khi Cơ Quan cần liên lạc.  Tôi đã bảo những cộng tác viên của mình nên tự giải quyết lấy mọi việc, nhưng  tôi cũng vẫn dựa vào Cơ Quan!
Lân, Phụng, Tài và tôi chơi bài tứ sắc và nói chuyện nhau.  Phụng là em của Lân và cũng là trung sĩ Hải Quân.  Anh ta từng ở nhà mẹ tôi lúc còn đi học, và anh ta cũng cưới một cô thợ may trong tiệm may của mẹ tôi.  Tôi kể cho họ nghe những điều xảy ra trong Cơ Quan của tôi sáng nay cùng những gì mà Cơ Quan đang chuẩn bị.  Tôi nghĩ họ cũng như tôi đều lo lắng cho sự an nguy của gia đình.  Ở đất nước tôi, đàn ông luôn làm chủ gia đình và quyết định mọi việc quan trọng trong gia đình.  Lân có 3 con nhỏ, Phụng thì chỉ mới có một đứa; chỉ có Tài là còn độc thân nên không lo gì cả ngoại trừ chính bản thân nó.  Đề tài chính trong cuộc đối thoại của chúng tôi đều nhằm vào tình trạng của đất nước và làm thế nào để thoát thân khi sự việc tồi tệ diễn ra.  Với 3 người đang làm cho Hải Quân Việt Nam, việc di tản bằng tàu thật quá dễ dàng, nhưng tôi vẫn luôn tin vào kế hoạch của Cơ Quan và trông chờ vào kế hoạch ấy.  Tôi nói với họ điều tôi đang suy nghĩ và họ cũng đồng ý như vậy.
Linh đến đi với tôi tới nhà của chị anh ta.  Anh rể anh ta, Thụ, là tổng giám đốc trong bộ Dân Vận Chiêu Hồi gặp chúng tôi như đã hẹn trước.
- “Anh có dự định gì trong vấn đề di tản một khi tình trạng khẩn cấp xảy ra không?”  Linh hỏi ngay.
- “Chưa!”  Thụ trả lời một cách hấp tấp, “nhưng đã có vài việc xảy ra trong Bộ vào sáng nay.”
- “Điều gì vậy?”  Linh hỏi một cách lo lắng.
- “Ông Tổng Trưởng Hoàng Đức Nhã bảo rằng có nhiều áp lực buộc Tổng Thống phải từ chức, và có lẽ ông ấy phải nhượng bộ thôi.  Tôi không biết khi nào và điều gì sẽ xảy ra, nhưng chúng tôi cũng đang chuẩn bị cho việc thay đổi ấy vì Nhã là họ hàng với ông Thiệu.”
- “Tôi đã nghe điều ấy rồi, và sáng nay Cơ Quan chúng tôi đã làm danh sách nhân viên.”  Tôi giải thích.  “Hôm qua tôi cũng có nghe nói việc Nguyễn Khắc Bình nhường quyền lại cho Nguyễn Phát Lộc, nhưng việc này chưa xảy ra.”
- “Tôi nghĩ việc ấy sẽ đến nhanh thôi!”  Linh thêm vào.  “Anh có ý nghĩ thế nào về tình trạng đất nước ta không?”
- “Tôi nghĩ chắc rất là phức tạp.  Người Mỹ muốn chúng ta giải quyết tình trạng chiến tranh bằng chính bản thân chúng ta, nhưng họ lại áp lực khắp mọi mặt.  Vài vị tướng lại muốn Tổng Thống phải từ chức để hoà đàm với VC, nhưng họ lại không biết làm thế nào nói chuyện được với Cộng Sản vì CS là những người không bao giờ tôn trọng thoả ước.  Tôi không biết ai sẽ làm Tổng Thống khi ông Thiệu từ chức:  Nguyễn Cao Kỳ và Dương Văn Minh là hai ứng viên sáng chói.  Với Kỳ thì có lẽ sẽ có chiến tranh thay vì thương thuyết.  Ngược lại Minh hiện là người được nhóm “Lực Lượng Thứ Ba” hậu thuẩn mà lực lượng này lại đang hợp tác với VC.  Tôi không biết việc gì sẽ xảy ra một khi Big Minh nắm quyền.”  Thụ trả lời theo nhận định riêng.
- “Chúng tôi đến đây để hỏi xem anh có kế hoạch gì không một khi tình trạng nguy kịch xảy ra.”  Linh cắt lời.  “Chúng ta nên có dự định riêng chứ không thể hoàn toàn trông cậy vào chính phủ hay vào Mỹ.”
- “Tôi chưa có ý định nào cả, nhưng cũng đã nghĩ đến điều ấy rồi.  Tôi nghĩ chúng ta sẽ có đủ thời giờ để đi một khi sự việc xảy đến.  Anh có nhớ khi chúng ta di cư khỏi miền Bắc sau khi hiệp định Genève ký kết không?  Tôi không nghĩ rằng đất nước bị mất quá nhanh đến nỗi chúng ta không có thời giờ để chuẩn bị ra đi.”  Thụ trả lời một cách thành thật.
Tôi biết rằng Thụ chưa có ý tưởng gì cho việc rút lui vào lúc ấy vì anh ta không muốn mất một địa vị mà anh ấy đang có.  Sau vài câu chuyện xã giao, chúng tôi từ giả ra về.  Linh có vẻ hơi thất vọng vì anh ta nghĩ anh rể anh ta có thể giúp được anh ta trong tình huống ấy.



( Hết chương 1 – 4 . Xin xem tiếp chương 5 – 7 )

Chương 5-7

17 Năm Trong Các Trại Cải Tạo Của CSVN (chương 5 – 7)


Hồi Ký Kale

Được đề cậpPhạm Minh Cảnh  Chủ Tịch Tổng Hội Sinh Viên Sài Gòn …, Lê Văn Nuôi…,  Ngày cuối cùng của đất nước…,  Di Tản…, Những ngày đầu tiên trong chế độ cộng sản…

Di tản 30thang04 h2

Chương 5. Những Báo Hiệu Về Sự Sụp Đổ Của 

Việt Nam Cộng Hoà

Ngày 21 tháng tư năm 1975, tôi đến văn phòng trong cơ quan rất sớm, các bạn tôi cũng thế.  Họ đang bàn tán về việc bàn giao nhiệm vụ giữa ông Đặc Uỷ Trưởng Nguyễn Khắc Bình với ông Nguyễn Phát Lộc, phụ tá Điều Hành.  Chúng tôi đã biết việc này xãy ra là kết quả của sự thay đổi trong phủ Tổng Thống, và mọi việc đang bắt đầu!
Ông Long, sếp chúng tôi cũng đến rất sớm.  Ông ta bảo chúng tôi giữ bình tỉnh, nhưng tôi nghĩ chính ông ta lại thấy không có vẽ bình tĩnh chút nào.  Ông ta đi quanh các phòng và hội trường nói nhiều chuyện khác nhau nhưng lại tránh không đã động đến việc đang xãy ra trong Dinh.  Chúng tôi nghĩ chắc ông đã biết về việc chúng tôi đang suy đoán về sự từ chức của Tổng Thống.
Thật ra Nguyễn Văn Thiệu hay ai khác làm Tổng Thống không thành vấn đề với chúng tôi.  Điều chúng tôi quan tâm chính là vận mệnh của đất nước và số phận của chúng tôi.  Ai sẽ là Tổng Thống và ông ta sẽ làm gì để đối phó với vận mạng của đất nước?  Phó Tổng Thống Trần Văn Hương không đủ sức để nắm chức vụ.  Tướng Dương Văn Minh là người muốn hoà hợp với Cộng Sản.  Cựu Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ có lẽ sẽ dẫn đất nước đến một trận chiến lớn.
Chúng tôi chẳng sợ chết nếu phải chiến đấu với VC.  Chúng tôi cũng biết rằng mọi sự hòa hợp với Cộng Sản sẽ đưa đến sự thất bại bởi vì chúng sẽ không bao giờ giữ lời giao ước.  Nhưng chúng tôi lại không có được sự lựa chọn nào!  Áp lực chính là người Mỹ; đó mới chính là sự đau khổ cho dân tộc nước nhỏ.  Tôi nghĩ người Mỹ không muốn chúng ta đánh nhau nữa.  Họ muốn có thương thuyết để có một nền hòa bình trong danh dự như họ thường nói, và điều này có nghĩa là họ chọn Big Minh để thực hiện điều họ muốn.  Nguyễn Văn Thiệu đã nói rằng: “Đừng nghe những gì Cộng Sản nói mà hãy nhìn kỹ những gì mà Cộng Sản làm”.  Tôi không biết ai là tác giả thật sự của câu nói ấy, nhưng tôi nghĩ quả thật điều đó rất đúng.
Cô thư ký của sếp, Đẹp, vẫn tiếp tục đánh máy danh sách địa chỉ của nhân viên.  Vài người muốn thay đổi địa chỉ, và vài người không vào cơ quan ngày hôm qua.  Sự bàn giao chức vụ trong cơ quan diễn ra rất lặng lẽ; không có một nghi thức nào, không có sự tham dự của nhân viên, vì vậy chúng tôi sẽ không biết gì nếu không ai loan báo.  Tin đồn về sự bàn giao này đã thành sự thật.  Chúng tôi lại cũng nghe nói rằng Nguyễn Phát Lộc, tân Đặc Ủy Trưởng chỉ có nhiệm vụ duy nhất là lo chuẩn bị việc di tản cho chúng tôi.  Chúng tôi hỏi sếp về tin đồn này, nhưng ông ta từ chối không chịu nói; ông ta chỉ nói rằng mọi việc sẽ diễn tiến theo sự sắp xếp.  Những lời nói mập mờ này không làm chúng tôi bằng lòng, và chúng tôi quả thật không biết giải quyết tình trạng chúng tôi ra thế nào: hoặc là chờ đợi cơ quan hay tự tìm lấy phương kế riêng mình để thoát thân.
Sự từ chức của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu được loan báo chiều hôm ấy, và bài diễn văn dài chín mươi phút của ông ta được truyền đi trên đài truyền hình và đài phát thanh khắp cả nước.  Chúng tôi nghe một cách lơ đễnh dù tổng thống có một dáng vẽ rất là buồn rầu và giận dử.  Chúng tôi đã biết trước việc này rồi, và chúng tôi cũng còn biết rằng ông cụ 72 tuổi, Phó Tổng Thống Trần Văn Hương chỉ làm Tổng Thống tạm thời mà thôi.  Điều chúng tôi đang lo là ai sẽ thay thế tiếp theo và ông ta sẽ đối phó ra sao với tình trạng của đất nước.
Lời kêu gọi đoàn kết để chống kẽ thù của Trần Văn Hương chỉ là nghi thức.  Ông ta không có thực lực để huy động sức mạnh của các tướng lảnh và của nhân dân.  Dân chúng không còn tin tưởng chính quyền nữa.  Họ đổ cho chính quyền là tham nhũng và đưa quốc gia đến tình trạng hiện thời.  Tôi không biết đó là sự thật hay chính là ảnh hưởng của sự tuyên truyền của VC.  Nếu điều đó đúng thì sự tham nhũng của cấp lảnh đạo trong chính quyền và quân đội chính là sự tàn phá đất nước trong chiến tranh vì điều này khiến kẽ thù có cơ hội để làm tan nát sự đoàn kết toàn dân.  Dân chúng sợ Cộng Sản, nhưng họ lại không tin tưởng vào chính quyền.  Điều đó đã khiến một người nào có nhiệt tâm kết hợp toàn dân để chiến đấu chống Cộng sẽ rất khó khăn.  Hầu hết mọi người Việt Nam đều biết câu tục ngữ “đoàn kết là sống, chia rẽ là chết”, nhưng không ai thực hiện điều ấy.  Quả thật là một điều khó khăn!  Làm thế nào chúng ta có thể đối phó với việc này cho dù chúng ta có sức mạnh và nhiệt tình đi nữa?
Cái chết của vị tổng thống đầu tiên của Việt Nam, Ngô Đình Diệm, vào năm 1963 đã bắt đầu cho sự xáo trộn trong cấp lãnh đạo ở Nam Việt Nam; sự từ chức của Nguyễn Văn Thiệu có lẽ là sự mở màn cho sự sụp đổ của Việt Nam Cộng Hòa!  Chúng tôi đều nghĩ đến điều này, nhưng không ai biết phải làm sao để giải quyết vấn đề của đất nước và của chính bản thân chúng tôi.  Chúng tôi hy vọng rằng sẽ có cơ hội để chiến đấu một trận chiến cuối cùng với VC và mong rằng cái gọi là các quốc gia Đồng Minh sẽ không bỏ rơi chúng tôi trong cuộc chiến ấy.
Trận chiến ở Xuân Lộc đã thất bại trước khi Tổng Thống từ chức.  Vài dư luận cho rằng Mỹ đã ngăn không cho tướng Lê Minh Đão, tư lệnh Sư đoàn 18 dùng một loại vũ khí hóa học để dành chiến thắng trong trận chiến ấy!  Chúng tôi không biết điều đó có thật vậy không, nhưng sự thất bại này là sự thất vọng cho mọi người trong thủ đô vì đó là tuyến phòng thủ cuối cùng về phía Đông Bắc Sài Gòn.
Sự viện trợ của các nước Đồng Minh đặc biệt là của Mỹ chỉ là một sự mơ hồ sau khi Tổng Thống Mỹ Ford bị quốc hội Mỹ phủ quyết ngân khoảng viện trợ 722 triệu Mỹ Kim về quân sự khẩn cấp cho chính phủ Sài Gòn.  Những cuộc di tản của người Mỹ, Nhật, và những người ngoại quốc khác ra khỏi Sài Gòn là một bằng chứng rõ ràng về sự bỏ rơi của Mỹ.  Cuộc chiến hai mươi năm chấm dứt trong sự từ chức của tổng thống dưới áp lực nặng nề của nhiều phía.  Tôi không biết Tân Tổng Thống có thể nào đối phó với hòa bình của đất nước hay không.  Trong lúc ấy, tôi chỉ nhìn thấy viễn ảnh của sự mất nước sẽ xãy ra khi chứng kiến trên truyền hình Ông Trần Văn Hương di chuyển rất khó khăn dưới sự trợ giúp của người khác.  Mặc dù trong diễn văn, ông ta thề rằng ông ta sẽ chiến đấu cho đến khi nào mọi lực lượng đều chết hết hay đất nước mất đi và sẽ được chôn chung với các chiến sĩ, tôi nghĩ chắc ông ta không có cơ hội thực hiện lời thề vì ông ta đã quá già yếu ở cái tuổi bảy mươi hai.
Rõ ràng rằng sự chuyển giao chức vụ trong cơ quan là để chuẩn bị cho việc di tản cho nhân viên, nhưng chúng tôi cũng không thấy một chương trình nào cả.  Một cơ quan tình báo phải sắp xếp rất nhiều điều một khi muốn bỏ cuộc như việc tiêu hủy hồ sơ, chuẩn bị phương tiện vận chuyển cho hàng ngàn nhân viên và gia đình, vân vân… Chúng tôi chỉ được khuyên là nên giữ bình tỉnh trong mọi tình huống và chờ đợi quyết định của cấp trên.  Tôi nghĩ họ chẳng dám quyết định gì hết.  Một vài người có cơ hội riêng đã đi ra ngoại quốc, số còn lại không thể tự lo lấy mình được thì đang phải chờ đợi trong vô vọng một kế hoạch của cấp lảnh đạo.
Những ngày tiếp theo quả là những ngày dài nhất của chúng tôi.  Lời kêu gọi của Tân Tổng Thống giữ vững vị trí để chống lại kẽ thù được ban ra như một mệnh lệnh.  Chúng tôi phải ứng trực một trăm phần trăm trong cơ quan.  Chúng tôi phải ở lại trong văn phòng cả ngày ngoại trừ khi đi tiếp xúc với cộng tác viên hay về nhà thay quần áo.  Chúng tôi không biết làm gì mà chỉ còn biết túm tụm nhau đánh bài và bàn tán.  Tôi không biết đang chờ đợi việc gì: một trận chiến với VC, một cuộc di tản, hay sự sụp đổ của đất nước.  Thật là một tình huống bi thãm!
Vợ tôi cũng phải ở lại trong văn phòng, và chúng tôi chỉ gặp nhau vào buổi cơm trưa.  Tôi cãm thấy tội nghiệp cho cô ấy với cái bầu trong lúc này.  Cô ta là một người phụ nữ nhỏ nhắn mà tôi hay gọi đùa là “fragile”, và cô ta cũng rất thích cái tên ấy.  Trong tình trạng ấy, tôi không hiểu cô ta có đủ sức để chịu đựng hay không.  Tôi tự hỏi cái bầu ấy là một niềm hạnh phúc hay chính là nỗi buồn của cô ta mặc dù cô ta đã chờ đợi nó rất lâu.  Tôi không thể nào có quyết định gì cho chúng tôi mỗi lần nhìn vợ tôi.  Cô ấy quá mảnh mai và cái bầu thì lại quá nặng nề; làm thế nào có thể leo lên tàu để làm một chuyến đi đến một nơi vô định!  Tôi sẽ không thể nào bỏ mặc vợ tôi một mình trong lúc ấy vì cô ấy cũng làm việc cho cơ quan, và tôi cũng không muốn bỏ rơi cô ta để tìm cách tự cứu lấy mình.  Tôi nghĩ rằng chúng tôi sẽ cùng chết nếu tình trạng tồi tệ diễn ra.  Điều tôi mong mõi là con tôi sẽ được sanh ra trước khi tình trạng tồi tệ xảy đến, chúng tôi sẽ tìm ra một phương cách cho chúng tôi: trốn ở đâu đó, đi ra khỏi đất nước, hay tự sát nếu cần thiết.
Bên cạnh tình trạng xáo trộn của đất nước, chúng tôi vẫn phải làm công tác thường lệ.  Tổng Hội Sinh Viên Sài Gòn đã được bầu một cách thành công.  Phạm Minh Cảnh, cộng tác viên của tôi trở thành Chủ Tịch.  Lễ ra mắt Tân Ban Chấp Hành vẫn được tổ chức như thường lệ.  Thay vì tổ chức ca nhạc trong buổi lễ ra mắt, lần này chúng tôi cho chiếu một phim đã bị xem là tội lỗi vào thời ấy, đó là phim Exorcist.  Tôi không biết tại sao sếp lại chọn phim ấy vì nó đã bị cấm từ lâu bởi cơ quan kiểm duyệt của chính phủ.  Tôi cũng không đến dự buổi lễ vì tôi không muốn cho vợ tôi xem phim rùng rợn trong khi cô ấy đang mang thai và cũng chính vì tôi đang quá lo lắng cho số phận của chúng tôi trong hiện tình của đất nước.  Điều đầu tiên mà Tân Tổng Hội yêu cầu là cho tấn công Bắc Việt bằng vũ khí nguyên tử để giải quyết tình trạng miền Nam.  Tôi nghĩ đó quả thật là một điều vô ích và buồn cười bởi vì không ai trên thế giới còn muốn một cuộc chiến tranh nguyên tử.  Chiến Tranh Việt Nam chính là cuộc chiến tranh cục bộ giữa chủ nghĩa Tư Bản và chủ nghĩa Cộng Sản để tránh một cuộc chiến toàn cầu.  Mọi thứ vũ khí hiện đại nhất của hai phe Đông Tây đều đã được thử nghiệm trên chiến trường Việt Nam trong suốt hai mươi năm.  Có lẽ đây là lúc phải chấm dứt cuộc chiến ấy!  Điều đáng buồn là chúng ta, những người lính Nam Việt Nam đã bị hy sinh bởi những nước lớn.
Trận chiến ở Xuân Lộc đã chấm dứt với sự thất bại của sư đoàn 18; những người lính thất trận rút lui một cách vô trật tự về thủ đô.  Các đơn vị VC bao vây Sài Gòn; hỏa tiển của VC rơi khắp nơi trong thủ đô, ngay cả trong bộ chỉ huy cơ quan.  Trong khi đó chính phủ dưới sự lảnh đạo của một ông cụ già, Trần Văn Hương, đã bị VC từ chối việc đại diện để thực hiện cuộc hòa đàm.  Ở Mỹ, Tổng Thống Ford loan báo rằng đối với người Mỹ thì chiến tranh Việt Nam đã chấm dứt.  Điều còn lại đối với Mỹ là việc di tản cho sáu ngàn người Mỹ ở Việt Nam.  Để di tản cho khoảng hai trăm ngàn người Việt Nam có liên quan với Mỹ, họ cần một đơn vị rất lớn, và điều này khó có thể được quốc hội Mỹ chấp thuận.
Tôi cãm thấy rất đau lòng khi phải đặt số phận mình trong tay những người sống bên kia bờ đại dương, những kẽ không quan tâm đến gì khác hơn là quyền lợi của họ.  Rỏ ràng rằng dân chúng Mỹ đã quá sợ cuộc chiến mà họ cho rằng dài nhất trong lịch sử Mỹ; họ mong có hòa bình!  Họ không muốn tiếp tục cái mà họ gọi là “Chiến Tranh Việt Nam”, nhưng tôi nghĩ họ chẳng quan tâm gì đến hàng triệu người Việt Nam mà số phận của họ đang bị đe dọa một khi Cộng Sản chiếm cứ.  Năm 1972, cái gọi là “Việt Nam Hóa Chiến Tranh” sau hiệp định Paris đã dọn đường cho sự rút quân đội Mỹ khỏi Việt Nam.  Người Mỹ cuối cùng sẽ ra khỏi Việt Nam để chấm dứt cuộc chiến tranh mà họ càng lúc càng bị lún sâu vào vũng lầy.
Người Mỹ cho rằng Chiến Tranh Việt Nam là cuộc chiến tốn kém nhất trong lịch sử Mỹ, và họ không muốn đổ tiền vào cái lỗ không đáy ấy nữa.  Họ đổ cho chính quyền Việt Nam là tham nhũng và đã làm mất nước, nhưng họ không cho nhân dân Việt Nam tự chọn lựa cấp lãnh đạo.  Họ đòi hỏi Việt Nam phải thực hiện dân chủ như ở Mỹ với sự tự do hoàn toàn và với sự đối lập.  Tôi nghĩ điều này quả thật là quá viễn tưởng đối với một nước đang ở trong chiến tranh hàng trăm năm.
Hầu hết mọi đảng phái đối lập và ngay cả trong các tổ chức chính quyền, VC đều có người len vào để thúc đẩy những phần tử bất mãn làm việc có lợi cho chúng.  Thay vì giúp đở cho việc xây dựng một chính quyền mạnh thì Mỹ lại giúp cho các tổ chức chống đối để Cộng Sản có cơ hội lợi dụng.  Những phong trào sinh viên học sinh từ Huỳnh Tấn Mẫm, Lê Văn Nuôi đều bao gồm những người Cộng Sản từ cấp lãnh đạo đến các người ủng hộ.  Cái gọi là mẹ và chị trong các phong trào này chẳng ai khác hơn là những người Cộng Sản.  Nếu chính quyền đàn áp các phong trào này thì bị cho rằng chính quyền đã dùng bạo lực với đàn bà và thanh niên, nếu không thì càng lúc càng thêm xáo trộn cho đất nước.  Các vấn đề này càng ngày càng làm chính quyền trong tình trạng tiến thối lưỡng nan.  Tôi không bào chữa cho chính quyền, nhưng trong nhiệm vụ hàng ngày tôi đã từng đối đầu với những khó khăn này.  Điều tôi muốn nói ở đây là một quốc gia có chiến tranh không giống như một đất nước đang hòa bình, và chúng ta cần nên chấp nhận trách nhiệm của mình chứ không nên đổ cho chính quyền mà thôi.  Tôi vẫn luôn nhớ một thành ngữ của Trung Hoa rằng:  Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách (Sự còn mất của đất nước là trách nhiệm của mọi người ngay cả kẻ thất phu.)
Sự di tản của người Việt Nam là đề tài chính trong những ngày này đặc biệt là đối với sĩ quan và nhân viên chính quyền Nam Việt Nam, nhưng thường dân lại đầy đặt phi cảng Tân Sân Nhất.  Quốc lộ 15, con đường chính để di tản từ Sài Gòn đã bị VC siết chặc.  Hầu hết những sĩ quan Nam Việt Nam có phương tiện đều đã đưa gia đình ra đi, nhưng số còn lại thì tự hỏi việc ra đi này có quá sớm hay không!  Vấn đề khó khăn cho chúng tôi lúc ấy là một cuộc ra đi quá sớm là việc đầu hàng mà không có chiến đấu, nhưng nếu để quá trễ thì lại không còn kịp nữa.  Tổng Thống từ chức Nguyễn Văn Thiệu đã rời Sài Gòn đi Đài Loan mặc dù trong diễn văn từ chức ông ta đã nói rằng ông ta chỉ từ chức chứ không bỏ cuộc.  Nguyễn Khắc Bình, Đặc Ủy Trưởng đã đi ngay ra nước ngoài sau khi bàn giao quyền hành.  Vài vị lãnh đạo trong cơ quan như ông phụ tá Tấn, Giàu, ông Tâm trưởng ban A, đã bỏ cuộc và ra đi.  Trong khi đó lệnh từ tân Tổng Thống là phải giữ vị trí để chuẩn bị trận chiến đấu cuối cùng.  Mọi việc đang xãy ra khiến chúng tôi hoang mang hơn lúc nào hết.  Ông Long, sếp chúng tôi cố gắng trấn an chúng tôi bằng cách hiện diện thường xuyên trong văn phòng, nhưng tôi nghĩ ông ấy cũng đang rất lo lắng vì ông ta không có những phong cách thường ngày.  Ông ta đi vòng quanh và tránh những câu hỏi của chúng tôi về hiện tình của đất nước.

 Nghệ Sĩ Diễm Liên lúc bố đi tù cải tạo 
Chương 6. Ngày Cuối Cùng Của Đất Nước
Những tiếng nổ vọng từ xa cộng với tiếng ồn của xe cộ khiến cho bộ mặt thủ đô trở nên kỳ lạ.  Tiệm ăn và rạp chiếu bóng đông nghẹt người, những ngân hàng cũng thế.  Người Việt Nam rút tiền ra để mua đô la và vàng; giá đô la tăng từ 118 đồng lên 500 đồng rồi lên đến hàng ngàn, giá vàng cũng tăng vọt lên.  Những người chuẩn bị di tản cần đô la và vàng để mua hộ chiếu và lo cho cuộc sống của họ ở quốc gia khác; những người khác thì không còn tin vào tiền tệ của Việt Nam và tin vào ngân hàng nữa một khi sự việc xảy đến.  Thẻ tín dụng cũng có chỗ đứng trong chợ đen ở Sài Gòn lúc ấy.
Mặc dù thủ đô trông dường như rất yên ổn khi nhìn vào những sinh hoạt bình thường, một sự nặng nề đang bao trùm lấy đầu óc dân chúng.  Họ đang chờ đợi điều gì đó đang xảy đến.  Đó là một điều ghê gớm đối với những sĩ quan Nam Việt Nam; đó là sự chờ đợi một cuộc sống trong hòa bình, nhưng cũng đầy những điều không dự đoán được đối với người dân thường.  Dù sẽ có một trận chiến lớn hay một thỏa hiệp với VC, điều đó đều đồng nghĩa với cái chết sớm hay muộn mà thôi.
Chúng tôi sẽ chấp nhận một trận đụng độ chứ không chịu bỏ cuộc, nhưng chúng tôi lại không có được sự chọn lựa bởi vì chúng tôi không có quyền.  Điều gì xảy đến cho chúng tôi một khi VC chiếm thủ đô: một biển máu, một sự trả thù, và họ sẽ đối xử thế nào với kẻ thù của họ.  Mọi cái đều đồng nghĩa với cái chết.  Tại sao chúng ta không chịu chấp nhận cái chết trong danh dự thay vì cái chết trong tủi nhục?  Hàng triệu sinh mạng của đồng bào đang bị đe dọa, nhưng dường như mọi người đều thờ ơ.  Cuộc  sống vẫn diễn tiến như lệ thường!  Dân chúng Sài Gòn quá quen thuộc với chiến tranh kể từ thời Thuộc Địa Pháp, từ cuộc tổng tiến công của VC vào Tết Mậu Thân 1968, và từ “mùa Hè đỏ lửa” 1972.  Vài người còn hy vọng rằng vài chiến thắng của VC chỉ là tạm thời giống như Tết Mậu Thân: người Mỹ bỏ cuộc lúc đầu nhưng rồi sau đó họ lại giúp Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa giành lại chiến thắng.  Tôi nghĩ rằng ít ai ở Nam Việt Nam có thể tưởng tượng được sự mất nước lại diễn ra dễ dàng như trở bàn tay.
Sự hỗn loạn trong hàng ngũ lãnh đạo đã xảy ra ngay sau khi Nguyễn Văn Thiệu từ chức.  Phó Tổng Thống Trần Văn Hương không thể nắm được quyền lực; sự cố gắng để hòa đàm là mục tiêu chính của tân tổng thống mặc dù ông ta đã tuyên bố sẳn sàng chiến đấu với VC nếu cần thiết.  Cộng Sản tuyên bố ngay tức khắc rằng chức Tổng Thống của Hương không thể chấp nhận được vì Hương là “anh em với Thiệu”.  Các đơn vị quân đội Miền Bắc và VC đang bao vây Sài Gòn sau khi sư đoàn 18 thất bại ở mặt trận Long Khánh.  Sân bay Biên Hòa và Tân Sân Nhất cùng vài nơi trong đô thành đều bị hỏa tiển của VC pháo kích vào.  Trong khi đó ở Mỹ, Tổng Thống Ford loan báo rằng: “Chiến tranh Việt Nam đã chấm dứt, và người Mỹ có thể lấy lại sự tự hào của họ trước chiến tranh Việt Nam.”  Điều đó có nghĩa rằng không còn cơ hội nào để Mỹ giúp đở Nam Việt Nam nữa, và nếu có một trận chiến toàn diện, chúng ta phải đối đầu với tình thế bằng chính sức lực của chúng ta.
Trong khi Hương đề nghị một cuộc hòa đàm bằng cách cử một Bộ Trưởng ra Hà Nội, thủ đô của Bắc Việt, thì Cộng Sản vẫn tiếp tục từ chối sự hợp tác hòa bình.  Trong một bài diễn văn, tân Tổng Thống nói rằng: “Đồng Minh của chúng ta đã bỏ rơi chúng ta, do đó chúng ta phải tự bảo vệ tổ quốc chúng ta.  Sài Gòn có thể trở thành một biển lửa và một núi xương nếu có một cuộc chiến toàn diện xãy ra mà điều này tôi rất muốn tránh.”
Vào ngày Chúa Nhật, 27 tháng Tư 1975, dưới áp lực của đại sứ Mỹ G. Martin và các nhà lảnh đạo miền Nam Việt Nam, Trần Văn Hương tuyên bố từ chức sau sáu ngày giử chức Tổng Thống.  Ông ta nói rằng ông ta sẽ trao quyền lại cho người được quốc hội Nam Việt Nam chọn lựa để thực hiện hòa bình cho Nam Việt Nam.
Chúng tôi nhận tin ấy với sự vô vọng hoàn toàn; chúng tôi phải tìm mọi cách để thoát khỏi đất nước.  Chúng tôi đều biết Tổng Thống kế tiếp chính là Dương Văn Minh người đang là một lãnh đạo cao cấp của “Lực Lượng Thứ Ba” (một thành phần đứng trung gian giữa chính phủ Nam Việt Nam và Cộng Sản) và có liên hệ với Phật Giáo chùa Ấn Quang.  Một cuộc hội đàm trong thế yếu như vậy có nghĩa là sự thất bại; điều đó có thể tránh một cuộc tắm máu cho nhân dân chứ không thể tránh được sự trả thù đối với chúng tôi, những kẻ thù của Cộng Sản.
Cuộc bàn giao chức vụ Tổng Thống giữa Hương và Minh sáng sớm ngày 28 tháng Tư diễn ra rất lặng lẽ và đơn giản.  Trong lời diễn văn, Minh hứa với Hương (người mà Minh thường gọi bằng Thầy) rằng ông ta sẽ không làm mất sự tin tưởng của Hương để tránh cuộc tắm máu cho dân chúng trong Thủ Đô.  Minh chấp nhận một chính phủ liên hiệp bao gồm Cộng Sản, những người Trung Lập, và Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời.  Cái gọi là thành phần trung lập là vài tổ chức ở Miền Nam như Thành Phần Thứ Ba, Phật Giáo Ấn Quang, Hòa Hảo, Cao Đài, và Công Giáo.  Điều đầu tiên là Minh tuyên bố sẽ thực hiện một trong những điều kiện tiên quyết của Cộng Sản cho việc hòa đàm: Yêu cầu quân đội Mỹ và nhân viên cùng dân sự Mỹ phải rời Việt Nam trong vòng 24 giờ.  Không có một điều nhắc nhở gì đến hàng triệu nhân viên chính quyền và quân đội của Nam Việt Nam ngoài việc ra lệnh phải ngưng bắn ngay tức khắc.
Trong Cơ quan chúng tôi, có nhiều lệnh khác nhau về việc thiêu hủy và không thiêu hủy hồ sơ.  Lò thiêu đã đầy giấy; không thể nhét thêm vào được nữa.  Sếp tôi lần đầu tiên thảo luận về việc di tản, nhưng ông ta lại không có quyết định nào mà lại phải chờ kế hoạch chung của Cơ Quan.  Chúng tôi biết rằng Cơ Quan chúng tôi tùy thuộc vào CIA của Mỹ và cấp lãnh đạo của chúng tôi phải hỏi các cố vấn Mỹ trước.  Người Mỹ chỉ có 24 giờ để rời khỏi Việt Nam.  Làm thế nào họ có thể giúp chúng tôi?  Tất cả chúng tôi đều tuyệt vọng!  Vài người đi qua cảng Sài Gòn đối diện với cơ quan để leo lên tàu ra đi, nhưng những người khác thì lại lúng túng với hoàn cảnh mà phải chờ đợi kế hoạch chung của cơ quan trong sự tuyệt vọng.
Sau khi nghe sếp ra lệnh về việc tập trung tại nhà an toàn ở đường Hai Bà Trưng vào sáng ngày hôm sau, tôi ghé chở vợ tôi về.  Trời gần như tranh tối, nhưng vài chiếc trực thăng vẫn tiếp tục lượn vòng trên bầu trời.  Đường phố có vẻ khác lạ hơn hôm qua: bộ hành đi vội vã, những người lính vũ trang và không vũ trang đi lại khắp nơi, xe nhà binh chạy cùng khắp.  Dù đã có lệnh ngưng bắn ban ra từ tân Tổng Thống Minh, hầu hết quân nhân và Cảnh sát không rời súng.  Vài phi công Việt Nam Cộng Hòa tức giận về nỗi đau của đất nước đã dùng phi cơ A-37 tấn công phi cảng Tân Sân Nhất, đốt cháy vài chiếc phi cơ trên phi cảng và tạo nên tiếng nổ vọng vào đến trung tâm Sài Gòn.  Vài quân nhân Việt Nam trong chiến phục của Thủy Quân Lục Chiến và Nhảy Dù dùng súng M16 bắn vào các trực thăng.  Những người lính Việt Nam Cộng Hòa đã quá thất vọng không biết làm gì hơn là bày tỏ mối bất bình bằng cách bắn vào những người Mỹ đang di tản, nhưng không có điều gì xãy ra cho họ ngoài việc một chiếc trực thăng bị rớt xuống biển khi đang đáp lên một mẫu hạm của Mỹ.  Dân chúng lái xe đạp và xe gắn máy chở đầy hàng hóa lấy từ những kho hàng của Mỹ bỏ rơi lại ở Tân Cảng, Thủ Đức, cách Sài Gòn khoảng 10 dặm.
Thủ Đô trở nên rối loạn ngay sau khi Big Minh lên cầm quyền.  Trụ sở tòa đại sứ Mỹ bị bao vây bởi những người dân muốn vào để chiếm một chổ trong trực thăng đang đáp trên sân thượng.  Những người lính gác Mỹ trong quân phục Thủy Quân Lục Chiến với súng M16 cầm tay đứng nghiêm một cách lơ đễnh ở các vọng gác.  Đám đông phía trước cánh cổng đóng kín giơ giấy tờ lên cao; đôi khi cánh cổng mở ra và tôi thấy vài người Tây phương đi vào.  Tôi cũng thấy vài người Việt Nam phía trong tòa đại sứ.  Người Mỹ cuối cùng phải rời Việt Nam trong vòng 24 giờ, do đó việc di tản này diễn ra rất vội vã và ồn ào càng lúc càng tạo nên sự nghi ngờ trong dân chúng.  Mọi người dân trong thủ đô dường như cảm thấy việc mất nước đã gần kề.  Dân chúng đổ ra đường để xem trực thăng trên trời, hoặc tìm đường di tản, hoặc đi thu nhặt những hàng hóa từ những kho bỏ lại của Mỹ.  Các quân nhân Việt Nam cùng với cảnh sát không còn muốn can thiệp vào nữa.  Tất cả đã tạo thành một quang cảnh rối loạn chưa từng thấy!
Lần đầu tiên tôi mang về nhà một khẩu súng ngắn.  Tôi không muốn cho vợ tôi biết nên dấu nó trong góc ngăn tủ kéo.  Tôi cũng không hiểu tại sao tôi làm việc này, nhưng tôi cãm thấy một chút nào đó lo ngại và sợ hãi cho hành động này của tôi.  Tôi đoán rằng tôi đang chuẩn bị cho cái chết của chúng tôi, hay chỉ cho chính mình tôi nếu tôi không đủ can đảm để giết chết vợ tôi khi sự việc diễn ra.  Tôi cãm thấy tội nghiệp cho đứa con còn trong bụng dù là trai hay gái.  Tôi đã từng nói với vợ tôi về việc đặt tên cho con là Anh Hoàng nếu nó là trai và Hoàng Anh nếu là gái.  Trong hoàn cảnh ấy, tôi không biết nó có được sanh ra hay không.  Tôi tự nghĩ rằng một trận chiến cuối cùng có thể không xãy ra, nhưng việc mất nước thì chắc không thể tránh được.
Cộng Sản hay Tư Bản không có ý nghĩa gì đối với tôi.  Cuộc chiến tranh kéo dài quá lâu trên đất nước sẽ chấm dứt, và tôi nghĩ không bên nào thắng trong chiến tranh Việt Nam vì người Việt cả hai phía đã chết quá nhiều trong cuộc chiến.  Tôi không nói đến những người lính, tôi chỉ muốn nói đến những thường dân, những người dân vô tội đã bị giết chết trong một cuộc chiến rất vô nghĩa.  Nếu tôi chết đi khi chiến tranh chấm dứt, tôi sẽ chỉ là một trong những người lính chiến đã chết trong cuộc chiến ấy.  Tôi hy vọng rằng dân tộc tôi sẽ hạnh phúc trong hòa bình cho dù dưới chế độ Cộng Sản.  Tôi nghĩ rằng cho dù là Cộng Sản hay Tư Bản, mọi người đều là người Việt; điều đó còn tốt hơn là đất nước trong tay bọn Thực Dân.  Những ý nghĩ này khiến tôi có một chút an lòng, và tôi về nhà với một tâm tư hơi nhẹ nhàng để tìm một phương cách thoát đi.
Ngồi phía sau xe gắn máy, vợ tôi không nói gì trên đường về nhà, nhưng tôi cảm thấy nước mắt thấm ướt cổ tôi nơi mà cô ấy áp mặt vào.  Tay vợ tôi ôm chặt hơn mọi ngày.  Tôi hiểu rằng cô ta đang lo sợ một sự việc kinh khủng xảy ra, và cô ta cũng sợ phải mất đi niềm hạnh phúc mà cô ta đang hưởng.  Tôi không biết làm thế nào để làm vợ tôi an lòng ngoài việc vuốt ve tay cô ta.  Gần ba năm chung sống, tôi luôn luôn đưa vợ tôi đi đến những nơi mà cô ấy muốn đi.  Bất cứ khi nào vào Cơ Quan, tôi thường vào văn phòng để hôn vợ tôi trước khi đến văn phòng của tôi.  Cô ấy thường hay nhắc đến lần đầu tiên đi xem phim với nhau, tôi đã chúc cô ta một đêm ngon giấc trước khi từ giả ra về và bảo với tôi rằng cô ấy đã yêu tôi kể từ lúc đó.  Chúng tôi đã từng dự định sẽ có hai đứa con, một trai và một gái, nhưng khi biết vợ tôi chỉ có thể có được một đứa con duy nhất, chúng tôi hy vọng đó sẽ là trai.  Ở đất nước chúng tôi, tư tưởng trọng nam khinh nữ có lẽ là một thói tục, và có lẽ chúng tôi cũng không thoát khỏi thói tục đó.  Thật ra, tôi chỉ muốn con trai để vừa lòng vợ tôi mà thôi; tôi không quan tâm mấy về việc có con trai hay con gái.  Tôi biết rằng đứa con là niềm hạnh phúc cho vợ tôi, nhưng trong hoàn cảnh chúng tôi như thế này thì không biết đó là hạnh phúc hay sự hối tiếc.  Tôi cảm thấy tội nghiệp cho vợ tôi, cho đứa con chưa chào đời, và cho cả chính tôi nữa!  Chúng tôi đang kẹt vào một tình huống khó gỡ.  Tôi chỉ còn biết dựa vào kế hoạch chung của Cơ Quan, nhưng nhìn cảnh di tản vội vã của người Mỹ, tôi biết rằng chúng tôi không còn có thể dựa vào họ được nữa.  Làm thế nào họ có thể giúp chúng tôi một khi chính họ còn phải rút lui một cách vội vã như vậy?  Tôi không biết cái lệnh cho người Mỹ rút lui trong 24 giờ là của Big Minh hay xuất phát từ phía Mỹ, nhưng theo tôi thì mọi việc đều bắt nguồn từ Washington bởi vì người Mỹ đã muốn rút lui trong danh dự.  Họ rút khỏi Việt Nam theo lệnh của Tổng Thống Việt Nam Cộng Hoà chứ không phải họ bị thua trận; có lẽ điều đó có nghĩa là danh dự đối với họ!
Tôi hoàn toàn không biết ai đã chiến thắng trong chiến tranh Việt Nam, nhưng tôi cãm thấy chúng tôi đã bị bỏ rơi sau khi cuộc chiến chấm dứt.  Năm 1963, Dương Văn Minh đã dọn đường cho quân đội Mỹ vào Việt Nam để chống lại Cộng Sản.  Năm 1975,  chính Dương Văn Minh lại nắm quyền hành để thương thuyết với Cộng Sản, và người Mỹ lại có cơ hội rút lui toàn bộ khỏi Việt Nam.  Thật là một cuộc lập lại theo chiều ngược của lịch sử.
Lịch sử Việt Nam đã trải qua một ngàn năm dưới ách đô hộ của Trung Hoa, một trăm năm dưới chủ nghĩa Thực Dân Pháp, và trên hai mươi năm trong cuộc chiến giữa hai chủ nghĩa Tư Bản và Cộng Sản.  Mọi người Việt Nam đều mong hòa bình hơn bất cứ người nước nào trên thế giới, nhưng trước hết phải là nền hòa bình trong tự do chứ không phải bị lệ thuộc vào bất cứ nước nào.
Dân Việt Nam không thể phân biệt được chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa Cộng Sản, vì thế họ đồng hóa cả hai với nhau.  Chánh phủ Nam Việt Nam đã không thể nêu rõ điều này cho dân chúng, và hầu hết dân chúng đã coi Cộng Sản là những nhà ái quốc còn Mỹ là quân xâm lược.  Thêm vào đó, sự can thiệp trực tiếp vào Việt Nam của quân đội Mỹ khiến chính phủ Nam Việt Nam mất chính nghĩa chống Cộng và đẩy dân chúng chống lại Mỹ.  Dân chúng không còn tin tưởng vào chính quyền Nam Việt Nam cho dù có nhiều sự tuyên truyền để giải thích về sự tàn bạo của Cộng Sản.  Cộng Sản gọi chính quyền Nam Việt Nam là ngụy quyền và dân chúng dường như đã tin rằng chính phủ Nam Việt Nam chỉ là công cụ của Mỹ.  Cuộc chiến giữa Tư Bản và Cộng Sản đã biến thành cuộc chiến tranh giải phóng để chống lại cái gọi là “Đế quốc Mỹ”.  Tôi nghĩ tất cả những điều đó bắt nguồn từ việc can thiệp trực tiếp của Mỹ ở Việt Nam trong khi Liên Xô và Trung Quốc chỉ đổ vũ khí và tiền bạc vào Việt Nam; họ không đưa quân đội vào Việt Nam ngoại trừ những cố vấn.
Tôi không hiểu sao cả Mỹ lẫn Cộng Sản đều nói rằng họ đã chiến thắng cuộc chiến. Người thất bại thật sự  có lẽ là chính chúng tôi, Chính Phủ và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa!
Chúng tôi phải chấp nhận tất cả những gì xảy đến bởi vì chúng tôi đã thất bại cuộc chiến cho dù có đổ cho ai đi nữa.  Tôi biết điều ấy và cũng đang chờ đợi trong đau khổ những bất hạnh xãy đến cho tôi và gia đình tôi.  Không biết lúc nào những điều này xãy ra, vài ngày nữa hay vài tháng nữa, nhưng điều ấy phải đến, không thể tránh được bởi vì bất cứ một sự liên hiệp nào với Cộng Sản đều luôn luôn là một sự tự sát nhất là liên hiệp trong thế yếu.  Lịch sử Việt Nam đã chứng minh điều ấy: Một lần vào năm 1945 chánh phủ liên hiệp giữa Cộng Sản và một vài đảng phái khác chỉ là tạm thời để Cộng Sản có thời gian loại trừ những người không Cộng Sản, và vào năm 1954 không lâu sau khi Cộng Sản ký hiệp định Geneve, bộ đội của họ đã vượt vùng phi quân sự để xâm lăng Nam Việt Nam.  Tôi không  nghĩ cái chính phủ liên hiệp mà Big Minh đề nghị sẽ được Cộng Sản chấp thuận một khi chúng đang thắng thế.  Ngay cả nếu cho chúng chấp thuận giải pháp đó của Big Minh, điều đó cũng chỉ là tạm thời để chúng nắm chính quyền và loại trừ những người khác.  Sự thất bại của chúng tôi chỉ là vấn đề của thời gian.
Khi tôi về đến thì mọi người đã tụ họp đầy đủ tại nhà mẹ tôi.  Lân, Phụng, Tài và tôi cùng chia xẻ những lo lắng với nhau vì chúng tôi có cùng hoàn cảnh.  Lân và Phụng đã quyết định không ra đi theo tàu của họ vì vợ không chịu đi đâu.  Tôi nghĩ không người Việt nào muốn rời đất nước họ trừ trường hợp rất cần thiết.  Dân tộc Việt Nam từng sống trong vòng của lũy tre làng của họ; họ ít khi đi khỏi nơi họ từng sống ấy, và họ rất tự hào với nơi họ sinh trưởng cho dù nơi ấy có nghèo nàn đến đâu chăng nữa.  Hàng triệu người dân miền Bắc Việt Nam di cư vào miền Nam vào năm 1954 khi Cộng Sản chiếm miền Bắc.  Họ xây dựng làng xóm của họ và sống với nhau; họ giữ gìn tập quán riêng của họ mặc dù họ sống trên một phần đất của Việt Nam, tôi không thể tưởng tượng người  Việt sẽ ra sao một khi họ sống ở nước ngoài.  Thêm vào đó, mọi người đều không biết họ sẽ đi đến đâu một khi họ leo lên chiếc tàu hay là chiếc trực thăng.  Tất cả đều là một sự đánh cuộc với số mệnh.  Đối với tôi, tôi sẽ không đi một mình bởi vì tôi không muốn bỏ lại vợ tôi với đứa con còn trong bụng.  Trong trường hợp cần thiết, tôi định sẽ trốn một nơi nào đó chờ đợi vợ tôi sanh nở xong; sau đó chúng tôi sẽ tìm một cách nào đó để trốn đi.  Một điều mà tôi tiên đoán lúc ấy là sẽ có một giai đoạn chuyển tiếp giữa Big Minh và Cộng Sản, do đó tôi có đủ thời gian để chuẩn bị cho việc di tản cho chúng tôi.  Tôi đã nói điều suy nghĩ này với vợ tôi để trấn an cô ta và cũng để tự trấn an lấy mình.
Tối hôm ấy, chúng tôi gói ghém mọi cái cần thiết để chuẩn bị cho việc tập trung tại nhà an toàn của sếp vào ngày mai.  Tôi không thể ngủ được mà cứ nghĩ ngợi đến mọi điều đã xãy ra trong đời mình.  Mùi cà phê và thuốc lá trong phòng làm tôi thức suốt đêm.  Vợ tôi đã chìm vào giấc ngủ say vì có lẽ cô ta quá mệt mõi, tôi đoán thế.  Đó là một đêm yên lặng ngoại trừ tiếng trực thăng bay lượn trên bầu trời và tiếng nổ vọng từ xa.  Lệnh giới nghiêm vẫn còn hiệu lực, do đó không có xe cộ hay bộ hành nào ngoại trừ xe nhà binh đang làm nhiệm vụ.  Ánh sáng hỏa châu trên bầu trời chiếu qua cửa sổ và soi sáng con đường nhỏ phía dưới tầng gác sau nhà mẹ tôi, nơi tôi đã từng sống vào thời thơ ấu.  Cái bàn viết nhỏ nơi tôi ngồi làm bài từ lúc học tiểu học đến đại học vẫn nằm trong góc phòng; những hình vẽ ngộ nghĩnh vẫn còn trên mặt bàn.  Chiếc giường tôi đang nằm cũng là chiếc giường nơi tôi đã ngủ khi còn bé.  Sách vở của tôi từ trung học đến đại học vẫn còn xếp gọn trên chiếc kệ do tự tôi làm.  Không có gì thay đổi ngoại trừ ý nghĩ của chính tôi.  Tôi cãm thấy tiếc nuối cho thời niên thiếu mà tôi không bao giờ còn sống lại được.
Tiếng ho của mẹ tôi phía dưới nhà kéo tôi về hiện tại.  Tôi nghe tiếng rót nước vào ly và tiếng bước đi của mẹ tôi.  Đó là những âm thanh mà tôi đã từng nghe một thời gian dài.  Mẹ tôi là một người đàn bà dáng người nhỏ nhắn, nhỏ hơn khổ người đàn bà Việt Nam trung bình, nhưng bà không yếu.  Mẹ tôi có thể ngồi may suốt ngày bên bàn máy may để kiếm tiền nuôi chúng tôi.  Cả cuộc đời của bà là một sự hy sinh cho các con.  Cha tôi đã rời gia đình ra đi vào mật khu vào lúc bà còn rất trẻ, và ông đã bị giết chết trong một trận chiến với lính Pháp khi mẹ tôi mới 29 tuổi.  Kể từ lúc đó, bà phải tự nuôi con.  Là một người thợ may, hàng ngày mẹ tôi đã phải làm việc rất cực nhọc từ sáng sớm đến tối mịt.  Bà cho chúng tôi đi học và mong muốn chúng tôi phải tốt nghiệp đại học để khỏi phải nghèo như bà.  Khi tôi làm cho chính quyền Nam Việt Nam, em gái tôi trở thành giáo sư, và em trai tôi là thông dịch viên, chúng tôi yêu cầu mẹ tôi đừng làm việc nữa, nhưng bà nói rằng bà đã quen làm việc và không thể ngồi không để chờ nhận tiền của chúng tôi. Tôi nghĩ cuộc đời mẹ tôi chính là một tấm gương sáng cho các người đàn bà Việt Nam.  Trong lúc ấy, tôi cảm thấy một chút hối tiếc là đã chưa được đền đáp công ơn của mẹ tôi, và tôi cũng không biết có còn cơ hội để thực hiện được điều này không.
Sáng sớm hôm sau tôi chở vợ tôi đến nhà an toàn ở đường Phan Thanh Giản.  Em út tôi, Tuấn và em họ tôi, Nghĩa cùng đi với tôi.  Tôi muốn có hai đứa đi theo để nếu tôi phải ra đi thì sẽ không bị cô độc ở nước ngoài.  Thêm vào đó Nghĩa đã từng là cộng tác viên của tôi ở Đại Học Khoa Học, do đó nó cũng nên ra đi để được an toàn hơn.
Chúng tôi đi ngang qua Tòa Đại Sứ Mỹ trước khi đến trụ sở an toàn.  Đường phố trông có vẽ bận rộn hơn những ngày trước.  Những người lái xe gắn máy chạy về phía trung tâm thủ đô với  những túi xách chất đầy phía trước và người đi cùng ngồi phía sau.  Mặc cho kẽm gai phía trên tường rào và những người lính gác Thủy Quân Lục Chiến, vài người Việt Nam đang leo lên tường rào của Tòa Đại Sứ Mỹ, chen chúc vào cửa chính và cửa hông để cố len vào trong đó.  Hàng ngàn dân chúng với những đồ đạt của họ đứng đầy quanh trụ sở tòa đại sứ và cổng chính của Trụ Sở Cảnh Sát Quận Nhất, phía sau tòa đại sứ.  Những người di tản đang chờ trực thăng trên những sân thượng của vài căn nhà ở trung tâm Sài Gòn, họ đứng vây quanh những người lính gác hải quân trên con đường đi vào cảng Sài Gòn.  Thật là một cuộc di tản vô trật tự!  Tôi không thể thấy một người Tây Phương nào trong đám đông cạnh Tòa Đại Sứ Mỹ; có lẽ họ đã đi hết vào tối hôm qua.
Nhà an toàn đầy đặt nhân viên;tôi nghĩ không còn cái ý nghĩa của nhà an toàn nữa rồi.  Tôi thấy mọi người đều hiện diện đầy đủ kể cả những cộng tác viên của tôi cùng gia đình họ.  Điệp, một họa sĩ trong ban chúng tôi cùng bà vợ đang mang bầu gặp tôi ở phía trước cửa và bảo tôi rằng ông Long, sếp chúng tôi, đang gọi điện thoại cho ông Lộc, tân đặc ủy trưởng, để hỏi về việc di tản cho nhân viên và gia đình.  Chúng tôi lo lắng chờ đợi.  Tuân cùng vợ đến chào vợ chồng tôi.  Chúng tôi nói chuyện về những điều đang xảy ra trong thủ đô, nhưng điểm chính là số phận cũng như hoàn cảnh của chúng tôi.  Trung, Tâm, Trí, Lâm, Vinh, và Nhàn, những cộng tác viên của tôi vây quanh tôi và hỏi nhiều điều mà tôi không thể trả lời được.  Tôi tự hỏi tại sao họ không chịu tự di tản vì họ còn trẻ và độc thân nữa, quá dể dàng leo lên một con tàu nào đó trong cảng Sài Gòn.  Tôi nghĩ có lẽ họ cũng chờ đợi kế hoạch chung của cơ quan.  Một sự chuẩn bị không hoàn chỉnh chính là một thảm họa trong trường hợp khẩn cấp như thế này đây.  Do hoàn cảnh của vợ tôi, tôi sẽ không ra đi được nếu không có kế hoạch chung của cơ quan.
Ngay sau khi tôi đến, Long, trong một dáng vẻ buồn phiền, đi ra khỏi phòng và nói rằng cuộc di tản của cơ quan sẽ không thể thực hiện ngay được vì người Mỹ phải lo cho họ trước. Ông ta yêu cầu chúng tôi tự tìm cách di tản lấy một mình nếu không muốn tụ họp tối hôm ấy tại trụ sở đường Nguyễn Hậu để chờ trực thăng Mỹ.  Chúng tôi lần lượt đi ra khỏi nhà an toàn.  Sau khi chia số tiền mật phí còn lại, Long và Hiệp, nhân viên an ninh của ban, trốn vào trụ sở Cảnh Sát quận nhất và leo vào Tòa Đại sứ Mỹ bằng cổng sau.  Hầu hết chúng tôi đều phải ra về để tìm cách tự cứu lấy mình.
Tôi đi ngang qua cảng Sài Gòn và thấy chiếc lambretta của Vũ Công Tuấn, bạn cùng làm với tôi bỏ ở đó; tôi biết anh ta đã ra đi theo tàu Hải quân ngay sau khi rời nhà an toàn.  Tôi hỏi Tuấn và Nghĩa có muốn đi vào cảng hay không, nhưng cả hai đều không muốn.  Trên đường về nhà, tôi ghé qua nhà Điệp để xem coi họ có cách nào ra đi không vì vợ của Điệp cũng đang có mang như vợ tôi, nhưng họ cũng không có kế hoạch nào khác.  Tôi đành phải ra về chờ đợi sự việc sẽ đến trong sự thất vọng tột cùng.
Trực thăng vẫn còn bay lượn trên không, và vài tiếng súng bắn một cách vô vọng lên bầu trời.  Tiếng gầm của đại bác và hỏa tiển vang vọng từ xa.  Vào trưa hôm ấy, một chiếc trực thăng phản lực cùng hai chiếc phi cơ chiến đấu bay thẳng về phía Đông trên bầu trời; nhiều tiếng súng bắn lên từ mặt đất cùng vài cụm khói trắng nổ bên trên tiển đưa những người ra đi.  Đó là chuyến di tản cuối cùng của người Mỹ, có lẽ là của đại sứ Mỹ Martin.
Người Mỹ đã đến Việt Nam dưới chiêu bài là giúp người Việt gìn giử tự do của họ, và rồi người Mỹ lại rời Việt Nam không một nghi thức tiễn đưa nào ngoài sự giận dữ của những người dân bị bỏ rơi.
Thực dân Pháp đã rời Việt Nam vào năm 1954 sau khi thua trận Điện Biên Phủ, nhưng họ lại không đi bằng cửa sau như người Mỹ.  Họ đã giúp những người đã cộng tác với họ hoặc những người không muốn sống với Cộng Sản đi vào miền Nam hay sang Pháp.  Tôi thật không hiểu tại sao một cái gọi là “cường quốc” như Mỹ lại không thể tìm ra được giải pháp nào để ra đi trong danh dự thay vì chạy trốn một cách vội vã như vậy!  Họ luôn miệng bảo rằng họ đã chiến thắng trong cuộc chiến Việt Nam, và họ đã trao cho lính của họ những chiếc huy chương đủ loại; tại sao họ lại để ông đại sứ của họ chạy trốn như một kẻ phản bội.
Những người dân Sài Gòn đổ ra đường để xem cuộc ra đi cuối cùng của người Mỹ với sự khôi hài xen lẫn với ít đắng cay tủi nhục.  Những người lính Nam Việt Nam coi đó như sự đau khổ của họ.  Những nhà lảnh đạo của họ đã từ chức hay trốn chạy, những đồng minh của họ đã rút lui.  Làm thế nào họ có thể đối phó được với tình hình trong khi cái gọi là “chính phủ hòa bình” của “lực lượng thứ ba” buộc họ phải từ bỏ vũ khí?  “Lực lượng thứ ba”, những kẽ đã làm xáo trộn hậu phương để giúp kẻ thù, lại đang cai trị đất nước để nói chuyện với kẻ thù.  Làm thế nào tôi có thể tin được họ?  Con đường di tản của tôi đã bị chặn lại; hoàn cảnh tôi đang ở trong tình trạng tiến thối lưỡng nan.  Tôi chỉ còn biết ngồi chờ cho mọi việc xãy đến với tôi ngay cả cái chết mà tôi cũng đang chuẩn bị.  Tôi nghĩ chắc không có gì tồi tệ hơn là chờ đợi một điều xấu nhất xảy đến mà không có một cách nào để tự vệ.
Đêm 29 tháng tư năm 1975 quả là một đêm dài nhất trong cuộc đời tôi.  Tôi không đến trụ sở cơ quan đường Nguyễn Hậu như hẹn vì tôi biết đó chỉ là một lừa dối cuối cùng.  Người Mỹ đã đi hết rồi, ai lo cho chúng tôi, một nhóm người di tản to lớn như vậy.  Tôi nghĩ con đường di tản duy nhất là đi vào cảng và leo lên tàu, nhưng tôi lại không thể làm được việc ấy.  Cuộc tụ họp ở Nguyễn Hậu đêm ấy đã thất bại; vài người đã ra đi bằng tàu Hải quân, nhưng số đông thì trở về nhà sáng hôm sau trong nỗi tuyệt vọng.
Tiếng nổ của bom, hỏa tiển, và đạn pháo nghe vọng từ xa suốt đêm.  Đài phát thanh Sài Gòn chỉ truyền thanh quân nhạc: Một thói quen của đài ấy khi có một biến cố quan trọng.  Người Việt đã từng nghe loại nhạc này từ cuộc đảo chánh 1963 lật đổ nền đệ nhất cộng hòa, từ Tết Mậu Thân 1968, từ những cuộc đảo chánh chống chính phủ của Dương Văn Minh và của Nguyễn Khánh.  Lần này thì dòng nhạc ấy đang chuẩn bị cho một biến cố quan trọng nhất, có lẽ là cho sự mất nước!  Đài tiếng nói hoa kỳ đã ngưng phát thanh bài White Christmas được phát liên tục trước đó; sự rút lui của Mỹ đã hoàn tất.  Đài BBC thì loan báo rằng Tổng Thống Dương Văn Minh của Việt Nam đã thất bại trong dự định hợp tác với VC, và các đơn vị quân đội Cộng Sản đang bao vây Sài Gòn chờ đợi sự đầu hàng của Big Minh.  Cộng Sản cho rằng Minh chỉ là sự tiếp nối của một chính phủ do Mỹ giúp đỡ.
Chúng ta đã thất bại, và đất nước chúng ta phải mất trong một hai ngày tới.  Các đơn vị Cộng Quân đang bao vây thủ đô.  Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã tan rã hoàn toàn.  Hầu hết các nhà lãnh đạo của chúng ta đã trốn chạy, và tân tổng thống thì ra lệnh buông vũ khí.  Cuộc hòa hợp nếu diễn ra cũng chỉ là một tự sát.  Tôi đã nghe phát thanh suốt đêm chờ đợi sự việc tồi tệ nhất diễn ra với nỗi thất vọng hoàn toàn.  Tôi đã không thể kềm được những giọt nước mắt khỏi trào ra.



Chương 7. Những Ngày Đầu Tiên
Trong Chế Độ Cộng Sản.

Ngày 30 tháng tư năm 1975, một ngày lịch sử mà chắc không một người Việt nào ở trong nước hay đang lưu vong trên toàn thế giới có thể quên được.  Tôi choàng dậy sớm mặc dù đã không ngủ tối hôm qua.  Vợ tôi vẫn còn ngủ say; tôi không muốn đánh thức cô ấy vì tôi muốn cô ấy được an ổn tâm thần cho dù sự việc tồi tệ nhất có diễn ra ngay vào sáng hôm đó.  Con đường phía trước nhà mẹ tôi đã ồn ào mặc dù lệnh giới nghiêm vẫn đang còn hiệu lực.  Dân chúng đi lui tới rất vô trật tự; xe gắn máy bóp kèn inh ỏi.
Tôi biết sẽ có điều gì đó diễn ra vì đêm qua tôi đã nghe nói đến việc mất nước trên những đài phát thanh.  Tôi quả thật không hiểu tại sao những cái gọi là cơ quan ngôn luận của thế giới tự do lại thường xuyên có những thông tin có lợi cho đối phương như vậy.  Cuộc tàn sát ở Mỹ Lai và hình ảnh của ông Nguyễn Ngọc Loan, chỉ huy trưởng Cảnh Sát Việt Nam, bắn một tên VC trong Tết Mậu Thân được đăng tải trên nhiều báo chí và tập san, nhưng tôi chưa hề thấy một hình ảnh nào về sự tàn sát ở Huế, Quảng Trị, khi VC tạm chiếm các thành phố này, hay những hình ảnh của trẻ em ở một trường tiểu học ở Cai Lậy bị giết bởi đạn pháo kích của VC.  Cuộc chiến tranh được coi là dài nhất và thê thảm nhất sau cuộc Thế Chiến Thứ Hai thì không thể nào tránh được việc giết chóc những người dân vô tội.  Những kế hoạch tuyên truyền của những cơ quan thông tin đã khiến Cộng Sản đạt được sự đúng đắn trong khi cái gọi là Đồng Minh thì lại mất đi sự ủng hộ của quần chúng.  Sự thất bại của chủ nghĩa Tư Bản trong chiến tranh Việt Nam không do chính cuộc chiến mà bắt nguồn từ những phong trào phản chiến ở Mỹ và trên thế giới.
Tôi đang chờ đợi sự khủng hoảng của đất nước với niềm tuyệt vọng vô bờ.  Dân chúng thì dường như quá quen với chiến tranh nên vẫn sống như thường lệ.  Tôi không thể phân biệt được ai là VC ai không vì mọi người đều là người Việt.  Đó cũng chính là điều khó khăn cho tôi trong nhiệm vụ hàng ngày.  Đôi khi tôi nghĩ sự chấm dứt cuộc chiến này có lẽ sẽ tốt hơn đối với nhân dân tôi cho dù chiến thắng thuộc về phía bên nào.  Chúng ta đều là người Việt dù là Cộng Sản hay Tư Bản.  Điều tôi hy vọng chính là dân tộc tôi sẽ sống trong hòa bình và giàu có hơn.  Một trăm năm trong chủ nghĩa Thực Dân và ba mươi năm chiến tranh đã khiến đất nước tôi trở thành một nước nghèo nàn và tan nát nhất thế giới.  Nếu VC có thể đem lại hạnh phúc và ấm no cho toàn dân thì quả thật chiến thắng của họ rất xứng đáng.  Đời tôi thì cũng chỉ như một hạt cát trong bãi sa mạc, và nếu tôi có chết đi thì cũng không là gì cả.  Ý nghĩ này khiến tôi có một chút an tâm.
Tiệm may của mẹ tôi vẫn mở cửa như thường lệ.  Thợ may vẫn đến làm việc, khách hàng vẫn đến và đi như không có chuyện gì xảy ra.  Khoảng 10giờ 30 sáng, tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố trên đài phát thanh việc đầu hàng Cộng Sản một cách vô điều kiện.  Ông ta nói rằng “việc đầu hàng này sẽ tránh việc tắm máu của dân chúng một cách vô ích”, và ông ta yêu cầu “quân đội Việt Nam Cộng Hòa hãy buông vũ khí trong trật tự và chờ đợi tại chỗ để bàn giao cho VC.” 
Tôi nghe nhiều tiếng súng nhỏ nổ vài nơi nào đó rất gần.  Mặc dù đã có lệnh ngưng bắn, vài chiến binh nhảy dù gác ở Viện Ung Thư gần nhà mẹ tôi đã nổ súng vào các đơn vị VC và rồi tự sát.  Vài cuộc đụng độ lẻ tẻ vẫn xảy ra ở Bà Quẹo, gần trại Hoàng Hoa Thám của quân Nhảy dù.  Những chiến sĩ tuyệt vọng và không có cấp chỉ huy đã tự động gây nên những cuộc đụng độ cuối cùng trước khi tự sát.  Họ là những người cuối cùng ngã xuống cho đất nước.  Tôi không biết họ có phải là những vị anh hùng hay không, nhưng tôi rất ngưỡng mộ những hành động đó.  Tôi đã không đủ can đảm để làm việc ấy mặc dù tôi cũng đã suy tính việc này rồi khi tôi mang súng về nhà.  Quả là rất khó có thể quyết định tự chấm dứt cuộc đời mình ngay cả trong hoàn cảnh hoàn toàn tuyệt vọng đi nữa.
Tiếng súng đã thưa dần.  Đường phố càng lúc càng trở nên náo nhiệt; tôi không thấy một VC nào ngoài những đứa trẻ cầm súng M16 và mang băng vải đỏ trên tay áo ngồi trên những chiếc xe đủ loại từ xe nhà binh đến xe dân sự lấy được từ những người di tản.  Dân chúng gọi họ là những “nhà cách mạng ba mươi” có nghĩa là những người lợi dụng thời cơ để trở thành những nhà cách mạng ngay trong ngày 30 tháng 4 năm 1975.  Họ từng là những học sinh, sinh viên, hay những nhân dân tự vệ trong vùng.  Những người lính Nam Việt Nam thì trở về nhà trong bộ đồ lót: binh phục và vũ khí của họ đã bỏ lại nơi nào đó trong đường phố.  Lời kêu gọi của tướng Nguyễn Hữu Hạnh trên đài phát thanh Sài Gòn yêu cầu binh sĩ và sĩ quan ở lại vị trí để đợi bàn giao cho VC đã không có hiệu lực; mọi người đều cố tìm đường thoát thân hay trở về nhà.  Những người di tản thất bại đang vội vã quay về lại nhà.  Dân chúng đứng trước cửa nhà để cố xem coi VC ra thế nào trong lần đầu tiên trong cuộc đời của họ!  Tất cả những điều này đã tạo nên một quan cảnh rất khôi hài.
Mọi người đều có những suy nghĩ rất khác nhau.  Binh sĩ và sĩ quan Nam Việt Nam thì lo lắng về số phận của họ; những người giàu có thì lo cho của cải của họ, và dân nghèo thì lại chờ đợi sự thay đổi số phận của họ theo như Cộng Sản hứa hẹn.  Những sự lo lắng cộng với mong chờ đã tạo nên một sự kỳ lạ chưa từng thấy trong đời tôi.
Vào Tết Mậu Thân, dân chúng đã vội vàng di tản ngay khi nghe VC đến.  Giờ này đây, họ không còn biết chạy đi đâu vì VC đã chiếm toàn bộ đất nước rồi!  Số phận của họ không còn nằm trong tay của chính họ nữa.  Họ phải chờ đợi điều gì đó đến với họ.  Đài Phát Thanh Hà Nội ra lệnh các đơn vị VC không được đụng đến một cây kim hay sợi chỉ của dân chúng, nhưng vài người thì nói đùa rằng VC  thích lấy những cái quý giá hơn là những cây kim hay sợi chỉ.  Vài người khác còn đùa rằng kể từ đây họ không còn lo sợ bị VC pháo kích nữa vì Mặt Trận đã giải phóng Sài Gòn!  Sự chịu đựng của dân chúng đã quá sức đến nỗi họ có thể đùa ngay cả trong sự tuyệt vọng tột cùng của họ.
Lời kêu gọi của tướng Nguyễn Hữu Hạnh cùng giọng ca của Trịnh Công Sơn trong nhạc phẩm “Nối Vòng Tay Lớn” liên tục nhau phát thanh trên đài Sài Gòn.  Trịnh Công Sơn, một nhạc sĩ  nổi tiếng của Nam Việt Nam, trong những năm 1960 – 1970 đã cùng với nữ ca sĩ Khánh Ly hát những ca khúc phản chiến trong các Đại Học ở Nam Việt Nam để thúc đẩy các phong trào chống chính quyền trong sinh viên.  Nhiều lần chúng tôi đã nêu việc này lên cấp trên, nhưng chính quyền không có lý do để đàn áp cho đến khi Trịnh Công Sơn nhập ngũ.  Các phong trào ca hát chống chiến tranh và chống chính quyền này vẫn tiếp tục cho đến ngày này Trịnh Công Sơn ra mặt là một tên Cộng Sản với bản nhạc “Nối Vòng Tay Lớn” chào mừng các “đồng chí” của anh ta (từ Bắc vô Nam nối liền nắm tay…).  Tôi không biết gì về Nguyễn Hữu Hạnh chỉ vì tôi không trực tiếp ở trong quân đội.  Tôi cũng không biết ông ta là Cộng Sản hay chỉ là người Cơ Hội.
Xe cộ, binh phục, và vũ khí bỏ bừa bãi đầy trên đường phố.  Trẻ con nghịch đùa với vũ khí và đạn pháo M30, và cũng đã có vài tai nạn xãy ra.  Vài người tháo rời những thứ trong xe cộ do những người di tản bỏ lại và lấy đi những gì lấy được.  Không còn cảnh sát giữ trật tự đường phố nữa nên xe cộ bị tắt nghẽn và mất trật tự.  Vài thanh niên mang băng đỏ đã tự đứng ra làm người chỉ dẩn lưu thông cố duy trì trật tự.
Khoảng trưa, đơn vị VC vào chiếm Đài Phát Thanh Sài Gòn và tuyên bố chấp nhận việc đầu hàng vô điều kiện của tướng Dương Văn Minh, tổng thống cuối cùng của cái gọi là “Ngụy Quyền Nam Việt Nam”.  Đó là lần đầu tiên tôi nghe danh từ “ngụy quyền” và “ngụy quân”.  Cùng lúc đó, Cộng Sản tuyên bố rằng Sài Gòn trở thành thành phố Hồ Chí Minh.  Tôi không còn nghe tiếng của Trịnh Công Sơn và Nguyễn Hữu Hạnh đâu nữa.  Bài ca “Sài Gòn Quật Khởi” đã thay vào đó, và đó cũng là lúc mà dân Sài Gòn lần đầu tiên được nghe một loại nhạc vừa nhanh vừa có âm điệu giống như nhạc Tàu.  Sài Gòn đã được tiếp thu bởi cái gọi là “Ủy Ban Quân Quản Thành Phố” do tướng Trần Văn Trà làm chủ tịch.
Vài chiếc xe Molotova, loại xe nhà binh của Liên Xô, bắt đầu thấy xuất hiện trên đường phố chở đầy những bộ đội Bắc Việt trong quân phục xanh với “nón cối” một loại nón của bộ đội Bắc Việt.  Dân chúng đổ ra đường để chào đón những người lính Cộng Sản, những con người còn quá trẻ và quá lạc lõng trong ánh sáng chói lọi của Sài Gòn.  Đó là cách mà dân Sài Gòn chuẩn bị cuộc sống của họ với những người Cộng Sản!  Những lo lắng của họ đã thành sự thật, và họ đành phải chào đón những người Cộng Sản với niềm vui để che dấu những lo âu đang mang trong lòng.  Tôi không thể phân biệt được ai là kẻ có một cảm tình thật sự!
Vẫn còn vài người chở trên xe đạp hay xe gắn máy những hàng hóa lấy được trong những nhà kho bỏ lại chen lẫn với dân chúng đang chào đón những bộ đội chiến thắng.  Dân Sài Gòn bắt đầu giãm đi những lo âu khi thấy những bộ đội Bắc Việt rất là luộm thuộm và lạc lõng.  Trẻ con bắt đầu quen dần với VC và chúng còn leo lên cả trên những chiếc xe tăng của VC.  Trong lúc đó thì đài truyền hình Sài Gòn lại chiếu cảnh một chiếc xe tăng Cộng Sản cày bừa lên cánh cổng mở rộng của dinh Tổng Thống, bắn một cách vô nghĩa vào tòa nhà, và cây cờ của VC đã được kéo lên nóc dinh.  Cờ ba màu của mặt trận giải phóng miền Nam treo khắp nơi.  Vài tiệm của người Tàu còn treo cả cờ của Trung Cộng nữa.
Cuộc chiến ghê gớm nhất trong hai mươi năm đã chấm dứt một cách dễ dàng; những người chiến thắng thì ngỡ ngàng, và những kẻ thất bại thì vẫn chưa tin vào sự thật!  Chiến tranh Việt Nam đã chấm dứt, nhưng cái gì đây sẽ tiếp tục sau cuộc chiến?  Đối với những sĩ quan của chế độ củ và đối với bản thân tôi thì dĩ nhiên là đang chờ đợi những cuộc trả thù.  Bất cứ điều gì xãy đến, chúng tôi đều phải chấp nhận hết vì chúng tôi đã chiến bại.  Cái chết sẽ là điều cuối cùng; tôi nghĩ thế.  Nhưng đối với nhân dân nước tôi, đặc biệt là dân Sài Gòn, điều gì sẽ đến với họ đây khi họ là những người đã quen sống với sự tự do?  Nền hòa bình mà Cộng Sản mang đến cho đất nước tôi dường như là khó chịu ngay đối với những người dân chưa hề có dính líu gì đến chế độ cũ.  Sự đối nghịch giữa những bộ đội miền Bắc và dân Sài Gòn trông quá rõ ràng nhất là vẻ bên ngoài.  Những bộ quân phục luộm thuộm với những đôi dép râu của VC quả thật rất khó được chấp nhận bởi dân Sài Gòn, những người đã quen với thời trang.
Không lâu sau khi tiếp thu Sài Gòn, Ủy Ban Quân Quản thành phố Hồ Chí Minh ban hành một số quy định nhằm mục đích làm thay đổi lối sống của Sài Gòn: bất cứ ai còn sống theo lối sống của Mỹ như mở hộp đêm, khu giải trí, hoặc ăn mặc “sặc sỡ” sẽ bị phạt.  Nhiều thanh niên nam nử bị cắt quần ống loe và mái tóc dài.  Trên đường phố đã thấy có dấu hiệu của sự thay đổi: chiếc áo dài truyền thống đã biến mất để thay vào đó bằng áo bà ba và quần đen.  Băng khẩu hiệu và bảng hiệu của các cửa hàng cũng đổi màu thành nền đỏ chử vàng.  Bệnh viện Từ Dũ đổi tên thành “xưởng đẻ”!  Bệnh viện Nguyển Văn Học thành “Bệnh Viện Nhân Dân tỉnh Gia Định”.  Danh từ “nhân dân” được dùng khắp nơi: Quân Đội Nhân Dân, Công An Nhân Dân, Chính Quyền Nhân Dân, và đặc biệt là “Tòa Án Nhân Dân”.  Mọi cái đều là của nhân dân, nhưng Cộng Sản điều khiển hết mọi thứ.  Trong mọi văn bản của VC, luôn có tiêu đề:

Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam

Độc Lập, Hòa Bình, Trung Lập.
Nhưng không ai tin đây là một quốc gia trung lập ngoại trừ một nước Cộng Sản.
Ngày thứ Năm, 1 tháng Năm 1975 cũng là ngày Lao Động của Cộng Sản Quốc Tế.  VC tổ chức một cuộc diễn binh vĩ đại gồm có xe tăng T-54 và PT-76, hỏa tiển SAM của Sô Viết và tất cả mọi thứ vũ khí của các nước Cộng Sản.  Hàng trăm ngàn người dân Sài Gòn và vùng phụ cận hiếu kỳ đổ xô vào xem.
Tôi đưa vợ tôi đến nhà ba má cô ấy.  Đường phố đông đúc.  Mặc dù tôi nghe rằng vài tỉnh ở đồng bằng sông Cửu Long vẫn chưa đầu hàng, nhưng VC đã tuyên bố rằng chúng đã hoàn tất nhiệm vụ giải phóng đất nước.  Cuộc diễn hành được tổ chức ở Sài Gòn, trước dinh Tổng Thống cũ chính là để ăn mừng chiến thắng của họ.  Đường phố được trang hoàng bởi rừng cờ và biểu ngữ màu đỏ chói, màu của máu.  Tôi nhìn thấy những biểu ngử như: “Không có gì quý hơn Độc Lập, Tự Do”, “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi”.  Hầu hết những khẩu hiệu đều mang tên tác giả là Hồ Chí Minh.  Tôi không biết những cái đó có đúng không, nhưng có một khẩu hiệu đã khiến tôi buồn cười.  Khẩu hiệu đó cũng nói rằng do Hồ Chí Minh là tác giả: “Kế hoạch mười năm là trồng cây, kế hoạch trăm năm là trồng người”.  Tôi đã biết câu nói này là của Quản Di Ngô, một chiến lược gia thời Đông Chu, vào thế kỷ thứ 5 trước Thiên Chúa giáng sinh.
Hình của Hồ Chí Minh treo cùng khắp nơi với câu: “Chủ Tịch Hồ Chí Minh Vĩ Đại sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta”.  Hồ đã từng là người Cộng Sản đầu tiên của Việt Nam và là một người Cộng Sản Quốc tế ở Liên Xô, Hồ đã chết vào năm 1969 sau khi thất bại trong việc mưu toan thôn tính miền Nam vào Tết Mậu Thân.  Vào lúc này thì người dân miền Nam đã nhận thức được điều mà họ đã từng nghe nói về “Bác và Đảng”.  Ở miền Bắc Việt Nam, không có gì ngoài Bác -bác Hồ- và Đảng -đảng Cộng Sản-.  Đối với người dân trong chế độ Cộng Sản miền Bắc Việt Nam thì gia đình, tổ quốc, tôn giáo đều không có ý nghĩa gì ngoài Bác và Đảng!  Và giờ đây điều đó đã trở thành cái thực tế để nhân dân miền Nam chiêm nghiệm những gì mà họ đã nghe được trước kia.  Nghĩ đến điều này, tôi bỗng cảm thấy tội nghiệp cho dân tộc mình.
Bằng cách ban hành những quy định cho nếp sống mới, VC đã loại trừ tự do cá nhân của dân chúng, và bằng cách đóng cửa báo chí, họ đã chấm dứt quyền tự do ngôn luận của người dân.  Điều gì sẽ xảy ra tiếp theo?
Đường phố từ nhà tôi đến nhà ba mẹ vợ tôi đã được trang hoàng đỏ chói.  Cờ ba màu của Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam Việt Nam chen lẫn với cờ đỏ của Bắc Việt và cờ của Cộng Sản Trung Hoa treo trước mọi nhà.  Băng biểu ngử và vài bảng hiệu cũng nhuộm màu đỏ.  Dân Sài Gòn thích ứng rất nhanh với hoàn cảnh.  Nhưng vẫn còn dấu hiệu của những cây cờ ba sọc đỏ của VNCH đã được vẽ lên trước đây.  VC chưa đủ thời giờ để xóa hết những thứ này cũng như những khẩu hiệu cũ: “Đừng nghe những gì Cộng Sản nói mà hãy nhìn kỹ những gì Cộng Sản làm” hoặc “Đất nước còn là còn tất cả, đất nước mất vào tay Cộng Sản là mất tất cả.”  Những cái ấy dường như là một chứng tích cho dân chúng để họ có cơ hội nhận rõ những hành động của Cộng Sản trong những ngày sắp tới.
Một cuộc chiến tranh tàn bạo đã chấm dứt một cách dể dàng, nhưng tôi nghĩ vết thương của nó sẽ không dễ gì hàn gắn được.  Đối với người dân miền Nam, những người đã quen sống trong tự do, chắc sẽ không dễ gì sống được trong một chế độ độc tài, nhất là dưới chế độ Cộng Sản.
Anh chị vợ tôi, Linh và Lan, đều ở bên nhà ba má vợ tôi.  Họ chưa dám ở nhà họ một mình.  Linh nói với tôi rằng chúng tôi phải trình diện tại cơ quan vào ngày mai, 2 tháng 5 theo lệnh của ông Lộc, nguyên đặc ủy trưởng.  Tôi không biết phải làm sao vì tôi đã nghe nói rằng người tiếp thu cơ quan là Nguyễn Tá, người đã từng làm việc chung với tôi trong khi tôi còn làm trong ban nội chính.  Tá đã trốn vào mật khu khi bị nghi ngờ là VC.  Tôi từng đi công tác ở Đà Lạt với Tá khi tôi đang theo dõi những hoạt động của nhóm “Lực Lượng thứ ba”, nhưng tôi nghĩ chắc anh ta chỉ biết bí danh của tôi chứ chưa biết tên thật.
- “Tôi nghĩ chúng ta phải lựa chọn thôi bởi vì không thể nào trốn tránh mãi được.  Sinh mạng chúng ta giờ đây giống như con cá nằm trên thớt, chúng ta không còn gì khác hơn là phải đánh cuộc với số mệnh.”  Linh nói.
- “Chúng ta thì coi như đã chết rồi từ ngày hôm qua.”  Tôi trả lời.  “Tôi thì chẳng còn tha thiết đến điều gì nữa cả, tôi sẽ đi vào cơ quan ngày mai với anh để xem tình hình thế nào.  Nhưng tôi cảm thấy không yên tâm về vợ tôi với cái bầu của cô ta.”
Chúng tôi nhìn nhau im lặng.  Linh và tôi có cùng hoàn cảnh vì chị vợ tôi và vợ tôi đều cùng làm trong cơ quan.  Tôi không biết có nên để vợ tôi đi trình diện hay không, nhưng rồi cô ấy không muốn ở nhà để chờ đợi tôi.  Vợ tôi cũng muốn được cùng chấp nhận mọi điều xảy ra cho chúng tôi.  Thêm vào đó, vợ tôi cũng không thể trốn đi đâu được vì hồ sơ giấy tờ vẫn còn lại trong văn phòng, và VC đã biết mọi điều về chúng tôi.

(Hết chương 5 – 7.  Xin xem tiếp chương 8 – 19)